Phân tích tư tưởng nhân đạo trong "Đại cáo bình Ngô" số 7
Có thể thấy được "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi đó chính là một minh chứng hào hùng cho chiến thắng chống giặc Minh của nhân dân ta. Thật dễ có thể nhận thấy được rằng xuyên suốt tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, chủ nghĩa yêu nước được tác giả khai thác, đào sâu. Ta như có thể khẳng định được triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đúng là những quan niệm tiến bộ có giá trị và ý nghĩa trong mọi thời đại. Thực tế cho thấy đã hơn 6 thế kỷ trôi qua, tư tưởng nhân nghĩa của người anh hùng ấy đường như cứ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc làm nên chiến công lừng lẫy.
"Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo".
Có lẽ chính cuộc đời ông là tấm gương về khí tiết thanh cao và hơn nữa nó cũng như chính là lòng yêu nước thương dân nồng nàn mà khởi nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Ta có thể khẳng định toàn bộ bài tư tưởng nhân nghĩa chính là một sợi chỉ đỏ chạy dọc theo toàn bộ bài thơ, từ khi người anh hùng Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa đến khi chiến thắng, biển trời thanh bình biết bao nhiêu.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Xem thêm Nghị luận xã hội về danh và thực
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Ta như nhận thấy được "nhân" và "nghĩa' dường như cũng chính là đạo lí ở đời, và ta như thấy được đạo lý giữa con người với con người và giữa con người với cuộc đời, là tôn chỉ trong xã hội mọi thời đại. Trong tuyệt tác nổi tiếng "Bình Ngô đại cáo" thì 'nhân" đã như thể hiện bằng hành động thực tế chăm lo cuộc sống nhân dân, nhân ở đâu thật sâu rộng, tích cực. Và hơn nữa là còn nghĩa là việc trừ bạo ngược để nhân dân xã tắc được bình yên.
Ta có thể hiểu rằng, trước sự xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để yên dân thì phải trừ bạo. Do đó mà có thể thấy được chính tư tưởng nhân nghĩa cốt nhằm mục đích là đem lại hạnh phúc cho người dân. Có lẽ cũng chính vì thương nhân dân mà cần dựng cờ khởi nghĩa để trừ hung bạo. Tư tưởng nhân nghĩa đặc sắc và sâu sắc trong "Bình Ngô đại cáo" dường như đã quy cho cùng tất cả là vì dân, vì hạnh phúc ấm no của nhân dân… xuyên suốt tác phẩm.
Tư tưởng ấy dường như rõ ràng, không mơ hồ, mà được tác giả nâng lên thành tư tưởng xã hội, gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước. Có lẽ chính vì nhân nghĩa nên ông xem những hành động mang tính tội ác của giặc Minh nhứ thiêu lửa đốt, và có những hành động như đã đào hố chôn sống nhân dân vô tội là những việc vô nhân đạo. Hành động thật nhân nghĩa không trừ tượng mà là những việc làm cụ thể đó chính là chống quân xâm lăng, tiêu diệt thế lực thù địch.
Ta như thấy được triết lý nhân nghĩa xuất phát từ nền tảng của lòng yêu nước thương dân, đó là nền tảng của bản anh hùng ca "Bình Ngô đại cáo'. Và hơn hết chính tác phẩm là quan điểm về quyền dân tộc, từ đó ông định nghĩa về đất nước thật trang trọng, tự hào biết bao nhiêu:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"
Nguyễn Trãi- Đại anh hùng của dân tộc dường nhưu cũng đã chỉ ra rằng nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng, đây có lẽ cũng chính là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam bao đời để tạo dựng nền văn hiến mang truyền thống của con người Việt Nam. Ta như thấy được chính tư tưởng ấy là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học, chính trị của ông, vượt ra khỏi phạm vi chính trị thông thường trở thành nền tảng, cũng đồng thời là nguyên tắc trong quản lý, lãnh đạo đất nước.
Trong tác phẩm, ta như thấy được Nguyễn Trãi đề cao nhân dân, ông luôn luôn coi trọng sự hòa hảo giữa các dân tộc. Nhưng dường như không vì sự tàn ác của giặc mà trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn, man rợ. Đó có thể chính là tấm lòng, là trí tuệ Việt Nam sau chiến tranh.
"Bình Ngô đại cáo" chính là áng thiên cổ hùng văn của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Và nó dường như cũng chính là văn bản tổng kết cuộc kháng chiến gian lao nhưng đầy tự hào, anh hùng của dân tộc ta hơn một thập kỷ. Đó chính là việc toát lên tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng chủ đạo cho chính trị, ngoại giao cho xã tắc muôn đời sau.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong "Đại cáo bình Ngô" số 1
Nguyễn Trãi là điển hình của vị hiền tài suốt đời đem tài trí phục vụ nhân dân. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong "Bình ngô đại cáo" nêu ước nguyện muốn cứu dân khỏi vòng tai họa, mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân. "Bình ngô đại cáo" gói trọn tấm lòng của Nguyễn Trãi, thể hiện tư tưởng nhân đạo của ông theo cách hiểu sâu sắc, không dừng lại cụ thể ở một người nào, một giai cấp, tầng lớp nào mà nhân rộng ra là muôn dân.
Đất nước đại thắng vào tháng 11/1428, Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết bài cáo để tuyên bố quân ta đại thắng, nước ta bước vào kỉ nguyên mới, phục hưng dân tộc. "Bình ngô đại cáo" là áng thiên cổ hùng văn được viết theo thể văn biền ngẫu, với giọng văn hùng hồn đã tuyên bố nền độc lập chủ quyền của nước nhà.
Lời tuyên ngôn độc lập của "Bình ngô đại cáo" hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn trước đó là "Sông núi nước Nam" tương truyền của Lý Thường Kiệt, bởi Nguyễn Trãi đã khảng khái đặt các triều đại Việt Nam ngang hàng với các triều đại Trung Quốc và bổ sung thêm các phương diện quan trọng khác để khẳng định độc lập, chủ quyền của một quốc gia.
Kèm theo đó, ông đã nêu tiền đề nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Từ một quan niệm sống, cách cư xử tốt đẹp giữa người với người, "nhân nghĩa" theo Nguyễn Trãi là phải biết hành động "yên dân", "trừ bạo". Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi bắt nguồn từ tấm lòng yêu nước, thương dân, vì dân, bởi vua là thuyền, dân chúng là nước, nước nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền.
Khác với Nguyễn Du- một danh nhân văn hóa thế giới- đại thi hào dân tộc, tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du là yêu thương con người, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ, lên án những chế độ, giai cấp chà đạp nhân phẩm của họ. Cái nhìn nhân đạo của Nguyễn Du hướng về con người bé nhỏ trong xã hội, cụ thể là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.
Riêng Nguyễn Trãi-bậc hiền tài- một danh nhân văn hóa thế giới khác lại hướng tư tưởng nhân đạo của mình rộng ra khắp muôn dân. Theo Nguyễn Trãi, nhân đạo là yêu nước, thương dân, quan tâm đến khát vọng, ý nguyện của dân, vì dân trừ bạo, mang đến cuộc sống ấm no cho dân.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Tư tưởng vì dân đã soi sáng, dẫn lối cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chiến thắng giặc Minh là việc làm chính nghĩa hợp với lòng dân. Khi đem quân xâm lược nước ta, bọn chúng gây ra nhiều tội ác khiến lòng người căm phẫn: hủy hoại cuộc sống con người, hủy hoại môi trường sống, đẩy người dân vào hoàn cảnh bi đát, cùng cực.
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi."
Nguyễn Trãi là người có tấm lòng yêu nước, thương dân nên ông không thể trơ mắt nhìn muôn dân lầm than, cơ cực. Tư tưởng nhân đạo đã chi phối Nguyễn Trãi có những hành động cụ thể: góp công sức vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi giặc Minh. Ông vạch trần âm mưu xâm lược của chúng, nêu lên khối căm thù chất chứa trong lòng người dân bằng giọng văn khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết.
"Bình ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù xâm lược đồng thời thể hiện niềm tự hào về một dân tộc tự cường, không chịu khuất phục, dũng cảm tranh đấu cho nền độc lập nước nhà. Cái nhìn nhân đạo hướng về nhân dân giúp Nguyễn Trãi phát hiện ra bản chất tốt đẹp của dân ta, luôn kiên cường trong mọi hoàn cảnh. Cảm thương cho họ, Nguyễn Trãi đã lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù và khẳng định lòng căm thù sâu sắc.
"Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống"
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mang tính chất chính nghĩa, nhân đạo vì mục đích của cuộc khởi nghĩa là hướng đến nền độc lập cho muôn dân an hưởng thái bình, ấm no. Kẻ thù sau khi thua trận được tha tội và được tạo điều kiện để về nước là hành động thể hiện tư tưởng nhân đạo của dân ta. Lời văn cô đọng, hàm súc, chứng cứ rõ ràng, lập luận chặt chẽ đầy thuyết phục đã khẳng định được tài năng và tấm lòng của Nguyễn Trãi. Ông tuyên bố độc lập và bày tỏ niềm tin vào thái bình vững chắc của đất nước.
"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới"
Nguyễn Trãi luôn hướng đến một tương lai tươi sáng, trên dưới vua tôi đồng lòng góp sức mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi là tư tưởng lớn, nêu bật nhân cách cao cả của ông.Cao quý thay tấm lòng trung quân, ái quốc, hết lòng phụng sự vì dân của Nguyễn Trãi! Ông là một nhân cách lớn dành cả đời hành động theo lẽ sống lớn.
Tư tưởng nhân đạo đọng lại trong "Bình ngô đại cáo" như một lời kí gửi đến mai sau, nhắc nhở nghĩa vụ của mỗi người đối với quê hương, đất nước. Hãy học tập và rèn luyện không chỉ mang lại cuộc sống tốt đẹp cho bản thân mà còn cho mọi người trong xã hội.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong "Đại cáo bình Ngô" số 3
Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.
Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân "cuồng Minh", ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở "bình Ngô", tuyên bố đất nước Đại Việt bước vào kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở. Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác cũa Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng "nhân nghĩa'' trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo, ông viết:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".
Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ "yên dân". Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải "trừ bạo" là trừ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội, một nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì "tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước". Chính vì "nhân nghĩa", vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ nhân dân ta như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống dân lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng ta phải trừng phạt.
Như vậy có nghĩa là "việc nhân nghĩa", hành động nhân nghĩa không phải một cái gì đó trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng "việc" cụ thể là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các nguồn phản động chống triều đình để xây dựng xã hội "vua sáng, tôi hiền". Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của "đại nghĩa":
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo".
Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. Ớ đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ".
Tội án "trời không dung, đất không tha" ấy của giặc Minh:
"Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi".
Tội ác ấy phải trừng phạt. "Quân điểu phạt trước lo trừ bạo". Quân ở đây là nhân dân: tập hợp thành đội quân "đại nghĩa - chí nhân" để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là, triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ "Cáo bình Ngô", nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu lên một quan điển về quyền dân tộc, và do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đỉnh đạc và tự hào.
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phương".
Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
"Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".
Thế mà nay bọn giặc Minh "mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn". Nhân nghĩa mà lại thế Lí? Thế đứng của một dân tộc trong nhân nghĩa bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo "lỗi đạo", ngạo mạn, xấc xược... Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta "lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều" đã làm nên chiến thắng.
"Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn".
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kè thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
"Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông".
Miêu tả cuộc tổng chiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định "vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo". Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. "Chí nhân, đại nghĩa" là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truyền thống của con người Việt Nam. ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên chúng ta đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Có gì quý hơn sinh mạng con người? "Người, ta là hoa của đất'' do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho "bốn phương biển cả thanh bình"... đối với quân giặc đã bị "cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng", chúng ta đã "chẳng giết hại" mà cho chúng "đường hiếu sinh".
Chúng ta có cái thế để "xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó khi bọn giặc đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng". Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được "an dân" không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi dân ta được "nghỉ sức" trong thanh bình:
"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới".
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại muốn cùng bỉnh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi chốn đồng cỏ" (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân.
Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và ước vọng "bốn phương biển cả thanh bình". Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những phi công Mỹ ngụy.
Họ đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tàn phá đất nước ta, gây bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy mà khi bắt sống những kẻ ấy, ta vẫn đối xử nhân đạo và sau ngày toàn thắng 30-4-1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lẩy chí nhân để thay cường bạo".
Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc Minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng "thiên cổ hùng văn" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong "Đại cáo bình Ngô" số 7
Nhà vua, nhà thơ Lê Thánh Tông từng viết:
Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo
(Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê)
Chẳng phải ngẫu nhiên mà bậc minh quân nhà Lê lại viết về bậc khai quốc công thần - Nguyễn Trãi như thế. Nhìn lại cuộc đời đầy vinh quang mà thảm khốc của Ức Trai, càng thấy tấm lòng ấy sáng rực cả non sông, chiếu sáng muôn đời. Từ cuộc sống trần thế đến văn chương, nhân cách, đức độ và cống hiến của ông luôn trọn vẹn. Mà một trong những điều làm nên sự toàn đức toàn tài đó chính là tư tưởng cốt lõi cả cuộc đời ông – tư tưởng nhân nghĩa. Bản Bình Ngô đại cáo, một áng văn chính luận xuất sắc của Nguyễn Trãi đã thể hiện sáng ngời tư tưởng ấy.
Xuất phát từ một quan niệm đạo đức Nho gia, nhân nghĩa được hiểu là cách ứng xử tốt đẹp giữa người với người trong xã hội. Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh tới cách hành xử thuộc về lối sống cá nhân, một trong những điểm rất nhân văn của đạo Nho. Thế nhưng trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi lại viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Vẫn là nhân nghĩa ấy, nhưng Ức Trai lại đưa ra cách hành xử không còn ở góc độ cá nhân nữa, mà là yên dân mang tầm quốc gia, dân tộc. Muốn thực hành nhân nghĩa tức là phải làm cho nhân dân có được cuộc sống yên ổn, bình an. Cái gốc của nhân nghĩa là ở nhân dân. Đây là điều hoàn toàn mới mẻ. Vẫn biết Nguyễn Trãi luôn hành động, cống hiến cuộc đời mình cho dân, tôn thờ dân, nhưng không nghĩ rằng ông lại việc "lấy dân làm gốc" để luận bàn về việc nhân nghĩa thông thường.
Cách hành xử đơn thuần ấy qua thẩm thấu của một trái tim quảng đại, một nhân cách lớn luôn biết lo cho dân trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý ở đời. Điều này khiến chúng ta liên tưởng tới Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập viết ở thế kỉ XX, cũng "suy rộng ra" từ những quyền rất cơ bản của con người, thành quyền chính đáng của dân tộc.
Có lẽ cả Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đều nhìn nhận những vấn đề có tính triết lý thực ra lại bắt nguồn từ những điều yêu cầu rất đỗi bình thường. Vì vậy khi Nguyễn Trãi đưa ra quan điểm nhân nghĩa ở tác phẩm này, giá trị của tư tưởng ấy trở nên to lớn, đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của hệ thống lí luận tư tưởng dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đề cập tới ở đây không hề chung chung, trừu tượng mà nó là việc nhân nghĩa, tức là phải hành động để luôn luôn duy trì sự yên ổn của nhân dân. Cứ vậy thì trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, sống dưới cảnh ngang tàng, bạo ngược của kẻ xâm lăng, nhân nghĩa chính là trừ bạo. Người thực thi nghĩa vụ này là quân điếu phạt, sức mạnh của quân đội mới đủ sức để đánh đuổi kẻ thù.
Ngay từ mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã hiện lên một cách rõ ràng, cụ thể. Nguyễn Trãi thể hiện trực tiếp và coi đó là mạch nguồn chi phối toàn bộ bản "tuyên ngôn". Ông khẳng định, không có nhân nghĩa không có nước Đại Việt hôm nay. Bởi nước Nam dựng xây Tổ quốc bằng các yếu tố thiết lập trên tinh thần nhân nghĩa. Có nền văn hiến, có lãnh thổ, có phong tục, có lịch sử, có hào kiệt,… đều từ cái gốc nhân nghĩa mà ra.
Dân ta gìn giữ chủ quyền, đấu tranh không mệt mỏi cũng để cho dân được hưởng độc lập, tự do. Quốc gia nào lớn bé gì có ý đồ xâm lược đều động chạm vào quyền lợi độc lập của dân, mà chưa kể lịch sử đã ghi nhận những việc, những chứng cớ đã từng như thế và những kẻ ấy đã bị trừng trị thích đáng. Nhân nghĩa là đứng lên bảo vệ dân, giữ gìn đất nước cũng được coi là hành động chính nghĩa sáng ngời. Vì thế ngay khi mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi xác lập được coi như là một cơ sở đạo lý, pháp lý hùng hồn nhất. Bài cáo từ đây đã có nền móng vững trãi, sắc bén để đi đến tuyên ngôn độc lập.
Giáo sư Đinh Gia Khánh từng nhận xét: "Tư tưởng nhân nghĩa này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước". Đúng vậy, nếu ở phần đầu bài cáo cơ sở lí luận được soi chiếu từ tư tưởng nhân nghĩa thì đến những phần sau một quá khứ đau thương mà rất đỗi anh hùng cũng được khơi dậy từ đó. Nhân nghĩa là việc cốt lõi để dân được yên. Vậy mà thời khắc rối ren của lịch sử năm ấy, dân đâu có được yên.
Mượn cớ chính sự phiền hà của nhà Hồ mà quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Chúng mang theo những luận điệu xảo trá, dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế suốt hai mươi năm trời để ngang nhiên tiến vào Đại Việt để vơ vét của cải, để ép buộc dân lành, đến cả côn trùng, cây cỏ cũng chẳng tha.
Trong Bài 8 – Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi viết: "Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc bạo tàn, lấn cướp nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư?". Đứng trên lập trường của nhân dân, dưới ánh sáng của nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đầy đau đớn, phẫn uất. Trước tòa án nhân nghĩa, âm mưu và hành động của giặc Minh không thể dung tha.
Vẫn bằng điểm tựa ấy, nhà văn đã dựng lại bức tranh lịch sử đầy tráng lệ, hào hùng về quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Xuyên suốt phần tái hiện lại quá trình ấy, nhân nghĩa vẫn là tư tưởng soi đường và nó được đẩy thành:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đại nghĩa – chí nhân được hiện thân qua hình tượng vị chủ tướng Lê Lợi – vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Cũng bởi nhân nghĩa mà Người đã vượt qua bao gian khổ, nuốt căm hờn và nung nấu ý chí đấu tranh. Để từ đó ngọn đuốc nhân nghĩa chói ngời làm nên những trận đánh liên tiếp, rung chuyển cả đất trời. Người đọc cảm nhận được khí thế hừng hực, ngút ngàn của quân ta được đặt trong thế tương phản đối lập với sự thất bại thảm hại nhục nhã, ê chề kẻ địch.
Ta sĩ khí đã hăng/ quân thanh càng mạnh, càng đánh quân ta đã hăng lại càng hăng. Địch mới mấy trận đầu mà đã nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân thì rồi sau này có tiếp thêm quân chi viện cũng cứ thế mà nối tiếp nhau những thất bại. Cảnh thảm hại của kẻ thù trên chiến trường là minh chứng hùng hồn cho kết cục làm trái với nhân nghĩa luân thường. Chứng cớ trong quá khứ còn ghi:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Giờ đây lịch sử lặp lại, thậm chí có phần thê thảm hơn:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Đó là cái giá phải trả cho những kẻ làm việc trái với nhân nghĩa cũng chính là công lao to lớn của quân điếu phạt Lam Sơn đã thành công trong việc lo trừ bạo để cho đất nước thanh bình, dân chúng được an yên. Chiến thắng ấy là tất yếu, là chiến thắng của tinh thần nhân nghĩa, của đội quân nhân nghĩa.
Và quân đội Lam Sơn rất xứng đáng là đội quân nhân nghĩa. Bởi cách hành xử đối với kẻ thua cuộc của tướng sĩ Lam Sơn đầy tính nhân văn, là việc làm chưa từng thấy xưa nay: Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh. Vậy hóa ra nhân nghĩa đâu chỉ bởi cho dân mình yên ổn, mà còn tạo cơ hội sống cho kẻ thù khi chúng thua cuộc.
Việc cấp cho chúng năm trăm chiếc thuyền, vài nghìn cỗ ngựa… khiến giặc chẳng những thua trong đau đớn, nhục nhã mà còn thêm sợ hãi, nể phục hơn. Nhân nghĩa là cao thượng, bao dung. Mãi sau này, khi giặc Mĩ thua ta cũng được cấp nơi ăn ở, máy bay để chúng trở về nước. Phải chăng nó bắt nguồn từ truyền thống sâu xa, giàu tính nhân nghĩa có từ thời Lam Sơn đại thắng?
Có thể thấy Nhân nghĩa là tư tưởng tiềm ẩn mà có người gọi là "mỏ quặng quý" phải khai thác, đào sâu, còn cái lộ thiên là lòng yêu nước, thương dân. Thật vậy, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn chặt với tư tưởng trung quân ái quốc, "dân vi bản" (lấy dân làm gốc). Lòng yêu nước thương dân là hiện thực hóa, cụ thể hóa cho tinh thần nhân nghĩa sáng ngời của Ức Trai.
Bởi vậy, mới có quân điếu phạt lo cho dân yên, mới có chân lý độc lập chủ quyền để đập tan ý đồ xâm lăng của kẻ xấu, mới có một bản cáo trạng đanh thép đối với giặc Ngô đã chà đạp, tàn nhẫn với nhân dân ta và mới có một chặng đường gian nan mà vẻ vang của nhân dân bốn cõi chống lại kẻ thù. Lòng yêu nước thương dân đã mang tới một tinh thần nhân nghĩa giàu tính nhân văn, biểu hiện cao cả của chủ nghĩa nhân đạo, vốn là truyền thống đạo lý của dân tộc, cũng là một trong những nội dung quan trọng của giai đoạn sau trong văn chương trung đại.
Nguyễn Trãi - Ức Trai đã ra đi trong một nỗi oan khiên thảm khốc, đau đớn, xót xa xé lòng… đó là những cảm xúc của bất kỳ người dân Việt Nam nào khi nhớ đến ông. Chỉ có thể là tư tưởng nhân nghĩa cả đời mà ông theo đuổi, cả đời ông cống hiến, xả thân đã thấm nhuần non sông, soi tỏ biết bao thế hệ con cháu Việt Nam thì chúng ta mới có cảm xúc trào dâng nghẹn ngào đến như vậy. Và mỗi lần như thế, cũng chỉ cần đọc lại Đại cáo bình Ngô để thêm một lần thấu hiểu giá trị to lớn mà tinh thần nhân nghĩa Ức Trai để lại cho muôn đời.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong "Đại cáo bình Ngô" số 6
Nguyễn Trãi là một đại anh hùng của dân tộc là danh nhân văn hóa của thế giới cũng là một nhân vật toàn tài chịu nhiều oan khuất trong lịch sử xã hội Việt Nam. Ông cũng được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc ta. Nguyễn Trãi là một tác giả sất sắc về nhiều thể loại văn học kể cả chữ Nôm và chữ Hán. Ông để lại một khối lượng tác phẩm có giá trị cao và quy mô lớn.
Trong số đó tác phẩm "Bình ngô đại cáo"là một tác phẩm kiệt xuất của ông. Bìa thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc khởi nghĩa chóng quan Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng "Thiên cổ hùng văn" muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà "Bình Ngô đại cáo" thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng "nhân nghĩa" mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.
Mở đầu tác phẩm Nguyễn Trãi nêu lên một luận điểm về nguyên lí nhân nghĩa: "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân"Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết chính là "yên dân". Dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi đánh giặc ngoại xâm đem lại bình yên ấm no hạn phúc cho nhân dân. Dùng quân nhân nghĩa để đánh quân xâm lược trước hết là để an dân để yên dân, Nhân nghĩa là tinh thần vì dân yên dân là chính nghĩa của nhân dân mang bản sắc dân tộc.
Nhân nghĩa ở đây chính là để cứu dân để trừ bạo. Như vậy có nghĩa là "Việc nhân nghĩa", hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng "Việc" cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội "vua sáng, tòi hiền". Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Câu thơ tiếp theo làm tô đậm khẳng định thêm ý câu thơ trước đó: "quân điếu phạt trước lo trừ bạo" Nguyễn Trãi đã coi việc an dân yên dân là mục tiêu của nhân nghĩa còn "trừ bạo là đối tượng phương tiện của nhân nghĩa.
Như vậy người nhân nghĩa phải lo trừ bạo tức là lo dẹp quân cướp nước. Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng chính là nhân nghĩa đối với nhân dân. Có thể nới tư tưởng ấy vừa cụ thể lại chỉ ra điểm cốt lõi điểm cơ bản nhất. Ta nhìn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì có lẽ tư tưởng nhân nghĩa ấy được đề cao hơn bao giờ hết:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
Người nhân nghĩa phải lo trừ "bạo", tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho "hợp trời, thuận người", nên có thể lấy "yếu chống mạnh", lấy "ít địch nhiều", lấy "đại nghĩa thắng hung tàn", lấy "chí nhân thay cường bạo". Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho "càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong".
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của các thánh nhân trước đây và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc đến là lòng thương dân tin tưởng nhân dân biết ơn nhân dân. Dân chúng luân được ông nhắc đến trong chiến tranh và trong thời kì hòa bình đất nước độc lập.
Ông nhận thức rất rõ mọi sản phẩm mà mình đang dùng đều được lấy từ nhân dân. Nhân dân sản xuất ra mọi của cải vật chất , nhân dân làm ra lúc gạo quần áo làm ra cung điện nguy nga và nhân dân đã nuôi sống ông. Sống gần dân thương dân thương dân, lúc nào ông cũng chỉ nghĩ cho nhân dân trước tiên tất cả là vì nhân dân vài cuộc ống yên ổn của nhân dân dân.
Chính vì thế mà ta thấy ngay từ câu đầu tiên của bài cáo ông đã nhắc đến nhân dân. Bởi mọi hoạt động lớn nhở của quốc gai cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất đó là đem lại cuộc sống an nhàn cho nhan dân. Suốt cuộc đời ông sống gần dân nên ông đã thấy được những đức tính cao đẹp của nhân dân và hiểu được những mong muốn của nhân dân.Tư tưởng nhân nghĩa ấy như đã được nói ở trân đó còn là lòng bao dung với kẻ thù.
Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong khởi nghĩa Lam Sơn và có thể nới chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược quyết đoán của ông chính là nguyên nhân dẫn tới chiến thắng quân Minh của nhân dân ta. Ta kết hợp giữa sức mạnh của quân đội với những lí lẽ thu phục quân giặc làm hạn chế máu rơi và thiệt hại về quân sĩ. Đó chính là nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được thể hiện ở sẹ khoan dung khi kẻ thù đã bại trận.
Nó thể hiện đức hiếu sinh của dân tộc Việt Nam nói chung cũng chính là tấm lòng bao dung của Nguyễn Trãi trong khi đối phó với quân địch trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ta đánh địch bằng sức mạnh bằng ý chí sự căm thù quân giặc khi đã đem quân sang định cướp nước ta. Nhưng khi giặc đã bại trận ta cũng không nên trút sự căm giận đó thể tàn sát khiến cảnh máu chảy đầu rơi xảy ra. Ta chiến đấu cốt chỉ để lấy lại đất đai để toàn vẹn lãnh thổ đó chính là mục tiêu cuối cùng.
Vậy cho nên khi đã thắng trận ta cũng không tàn sát mà để cho bọn chúng một con đường lui để chúng được quay về đoàn tụ với gia đình người thân. Điều đó cũng sẽ khiến cho dân tộc ta được tôn trọng được coi trọng và biết ơn. Việc làm này cũng khiến cho quân Minh e dè mà không dám quay lại nước ta tấn công nữa.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, "mở nền thái bình muôn thuở" bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: "nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh.
Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời". Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài "kinh bang tế thế" và là một tư tưởng có sức sống "vang đến muôn đời".Ta cũng có thể nói thêm về tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp nước giúp dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm rằng người hiền tài càng nhiều thì xã tắc mới càng được hưng thịnh nhân dân mới dược âm no hạnh phúc mới có thể đánh đuổi quân giặc không dám quay lại chiến đánh trên đất nước ta thêm một lần nào nữa.
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chù nghĩa nhân đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác, đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và "Bốn phương biển cả thanh bình".
Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.Tư tưởng nhân nghĩa trong "bình ngô đại cáo không chỉ có ý nghĩa to lớn xét về mặt nhân nghĩa mà còn có tầm ảnh hưởng tới toàn thống chính trị của đất nước trong những thời đại sau này nữa. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn với dân tộc với đất nước Việt Nam cho đến tận bây giờ.
Phân tích tư tưởng nhân đạo trong "Đại cáo bình Ngô" số 4
Vua Lê Thánh tông đã từng đề cao: Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê và ngày nay, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã đánh giá: Nguyễn Trãi là tinh hoa của dân tộc qua bao thời đại kết hợp lại. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là ngôi sao rực rỡ trên văn đàm thế kỷ XV, những tác phẩm thơ văn viết bằng chữ Hán, chữ Nôm như ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập hay những áng văn chính luận như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi để lại cho nền văn học dân tộc, cho nước nhà có thể xem là những đóng góp xuất sắc, đa dạng cả về mặt nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật.
Ngày xưa Khổng Tử đã từng quan niệm "Thi dĩ ngôn chỉ"- Thi ca không chỉ thể hiện tình cảm con người, mà còn thể hiện tư tưởng con người. Nguyễn Trãi không chỉ là một thi sỹ mà còn là một nhà triết gia, một nhà tư tưởng. Thi ca của Nguyễn Trãi đã phản ánh rõ tư tưởng của tác giả. Đó là tư tưởng của Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo hòa hợp nhau mật thiết trong con người ông. Trong đó Nho giáo là xu hướng nhân đạo rõ nhất trong tác phẩm Nguyễn Trãi. Tư tưởng ấy thể hiện rõ ở lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn về nền văn hiến của dân tộc.
Trên cơ sở đó Nguyễn Trãi đã dùng nhân nghĩa làm nguyên lý, làm lập trường chống lại quân xâm lược nhà Minh. Trong phạm vi bài viết nhỏ này chúng tôi đề cập đến một khía cạnh, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong thơ Nguyễn Trãi và đi vào một tác phẩm cụ thể - Tư tưởng nhân nghĩa trong tác phấm "BìnhNgô đại cáo".
Trong cuốn "Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc", cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng viết "Triết lý nhân nghĩa Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân, cái nhân cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân". Ta có thể khẳng định tinh thần suốt một đời nhân nghĩa, suốt một đời phấn đấu không ngừng của ức Trai không một bài văn bài thơ nào thể hiện mức độ kết tinh như Bình Ngô đại cáo.
Một tác phẩm lớn mang tầm tư tưởng lớn, một luận văn tổng kết lịch sử tư tưởng yêu nước Đại Việt, dưới hình thức một áng văn, một "Thiên cổ hùng văn". Bình Ngô đại cáo chính là sự chung đúc những tinh hoa của tư tưởng yêu nước Việt Nam, đến Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Trãi đã được nâng lên một tầm cao chưa từng thấy trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trước khi nhà yêu nước vĩ đại Hồ Chí Minh gặp chủ nghĩa yêu nước Mac - Lênin.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo được thể hiện ở lòng tự hào về ý thức dân tộc, về nền văn hiến dân tộc. Nhân nghĩa là yêu nước thương dân, căm thù giặc, diệt bạo tàn mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân.I. Nhân nghĩa là niềm tự hào dân tộc về độc lập chủ quyền, nền văn hiến dân tộc:
Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo, chúng ta có thể thấy Nguyễn Trãi đã nêu cao giá trị của truyền thống dựng nước và giữ nước. Tư tưởng yêu nước được thể hiện trước hết ở lý luận về độc lập dân tộc, về chủ quyền quốc gia. Lý luận đó được người Việt Nam nhận thức bổ sung và nâng cao, làm phong phú thêm bằng thực tiễn dựng nước và giữ nước. Ông cha ta luôn khẳng định Việt Nam là một dân tộc có núi sông, bờ cỏi, có lịch sử, có nền văn hiến lâu đời.
Đó là điều cốt lõi để khẳng định ý thức tự tôn của một dân tộc, chống lại âm mưu thôn tính, đồng hóa của Trung Quốc, khẳng định sức mạnh quật cường của dân tộc. Trong bài thơ "Thần" Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt đã khảng khái tuyên bố:
Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẵng hành khan thủ bại hư.
Nếu như trong Nam Quốc Sơn Hà, ý thức dân tộc được xác định chủ yếu trên hai yếu tố: lãnh thổ, chủ quyền, mới chỉ dừng lại ở phân chia núi sông bờ cõi, thì đến với Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định thêm ba yếu tố phong tục, văn hiến, lịch sử.
Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Định, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
Qua đây, ta có thể thấy Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thấy được vai trò văn hóa trong việc cấu thành dân tộc; cũng là người đầu tiên khẳng định sự tồn tại độc lập của nền văn hóa Đại Việt, dứt khoát tách khỏi quỹ đạo của văn hóa phương Bắc. Trong quan niệm về độc lập chủ quyền của dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến (Văn: văn chương sách vở…; Hiến: hiền tài hào kiệt) là yếu tố cơ bản nhất để xác định, khẳng định độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
Đây chính là điều mà kẻ thù luôn luôn phủ định, không thừa nhận và tìm mọi cách xóa bỏ. Sự khẳng định dứt khoát của Nguyễn Trãi về văn hóa, về con người Việt Nam trong Bình Ngô đại cáo là sự trả lời cho tư tưởng phân biệt giữa "Hoa hạ" và "Tứ di" vốn là tư tưởng phản động của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đặc biệt triều Minh - Triều đại xâm lược tàn bạo đất nước ta, mưu toan hủy diệt toàn bộ nền văn hóa dân tộc của ta.
Nguyên lý về nhân nghĩa phải đứng trên lập trường của chính nghĩa. Khẳng định chân lý độc lập và chủ quyền của dân tộc trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đưa ra những minh chứng đầy sức thuyết phục về sức mạnh của nhân nghĩa, của chân lý.
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã…
là những chứng cứ khẳng định cho sức mạnh của dân tộc ta.Theo quan niệm tư tưởng của Nguyễn Trãi "Nhân nghĩa gắn liền với văn hóa, văn hiến, văn minh". Chính nó tạo nên thế đứng độc lập ngang hàng với bao nhiêu triều đại phương Bắc trong quá khứ, nền văn hiến không những được đánh dấu ở "Núi sông bờ cõi" mà còn ở "Phong tục Bắc Nam". Phong tục của một dân tộc nói lên lối sống cao đẹp của dân tộc ấy. Sức mạnh của một dân tộc được khẳng định, thể hiện ở sự bền vững của những phong tục tốt đẹp nhất.
Người Đại Việt từ ngàn đời nay luôn mang trong mình đạo lý tốt đẹp, luôn có tình yêu thương, sẻ chia đùm bọc, đoàn kết gắn bó một lòng, có tình tương thân tương ái "Chị ngã em nâng", "Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ". Dù kẻ thù có ra sức đồng hóa, hủy diệt, phủ nhận thì người Việt Nam vẫn khẳng định được thế đứng của mình, khẳng được vẻ đẹp bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhân nghĩa là yêu nước thương dân, là dựa vào dân mà cứu nước:Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo cùng với việc khẳng định truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa của dân tộc, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yêu thương con người, là mưu cầu cho hạnh phúc muôn dân. Mở đầu Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Chỗ dựa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi ở đây là dùng lời lẽ của thánh hiền, dùng luận đề của nho giáo "Hàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu". Nhân nghĩa là "Trên thuận theo lòng hiếu sinh của trời, dưới cứu thoát nhân dân từ trong nước sôi lửa bỏng". Như vậy nhân nghĩa chính là thương dân, là mong muốn cho dân được hưởng cuộc sông thái bình. Cho nên "Đánh kẻ có tội, cứu vớt nhân dân là thánh nhân làm việc đại nghĩa".
Theo quan niệm đạo lý của Khổng Tử, Mạnh Tử thì việc triều đại nhà Minh dấy binh xâm lược nước ta, hòng thôn tính huỷ diệt Đại Việt chính là hành động bạo ngược, trái ngược với đạo lý, với ý trời lòng dân. Với một triều đại tôn sùng Nho giáo, hay nói cách khác là luôn mở miêng rêu rao đạo lý thì việc đi ngược lại thánh hiền là hành động sai trái, là tội ác tày trời. Bằng tấm lòng yêu nước sục sôi, thương muôn dân phải sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, Nguyễn Trãi đã vạch trần lên án, tố cáo bộ mặt giả nhân giả nghĩa, vạch trần luận điệu bịp bợm "Phù Trần diệt Hồ" của giặc Minh:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
(Bình Ngô đại cáo)
Hành động của kẻ thù ở đây là hành động diệt chủng. Còn có ai mà chúng không hà hiếp dã man tàn khốc? Còn có ai mà chúng không bóc lột đến tận xương tủy. Tình yêu thương nhân dân hòa quyện với lòng căm thù giặc sâu sắc, Nguyễn Trãi đã dùng những lời văn thống thiết, những hình ảnh cụ thể trong đời sống thực của nhân dân để nói lên nỗi đau khổ của nhân dân, cũng như tội ác tàn bạo của kẻ thù. Đọc Bình Ngô đại cáo, ta thấy hiện lên hình ảnh những người dân vô tội không còn con đường sống. "Người bị ép xuống biển", "Kẻ bị đẩy rừng sâu" và trước mắt họ là cá mập thuồng luồng, là hùm beo sói dữ. Tội ác của kẻ thù vừa tàn bạo, vừa rộng khắp.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Ngay cả những kẻ "Góa bụa khốn cùng" cho đến giống "côn trùng cây cỏ" củng khó thoát khỏi manh vuốt kẻ thù. Những kẻ tự xưng là có nền văn hiến, những kẻ tự cho mình thông hiểu đạo lý thánh hiền thực chất chỉ là loài quỷ dữ uống máu người không tanh.
Thằng há miệng đứa nhe răng
Máu mỡ no nê chưa chán
Tội ác của giặc Minh chất cao hơn núi, chúng tham lam vô độ, tàn bạo vô cùng, chúng đã dùng "Muôn nghìn kế", "Dối trời lừa dân" tội ác ấy "Bại nhân nghĩa nát cả đất trời". Nguyễn Trãi đã chỉ thẳng vào mặt kẻ thù, kết thúc bản cáo trạng bằng lời kết tội đanh thép.
Độc ác thay! Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay! Nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được.
Đây chính là vấn đề lớn đặt ra cho cả dân tộc, cho lịch sử. Bởi tội ác của kẻ thù là vô hạn, cái bạo ngược của chúng là vô cùng, tội ác ấy trời không dung, đất không tha. Theo quan điểm của thánh nhân, người quân tử phải làm nên đại nghĩa, phải cứu muôn dân thoát khỏi cảnh lầm than. Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường nhân nghĩa xé tan bức màn dối trá "Nhân họ Hồ chính sự phiền hà" nhà Minh lợi dụng chiêu bài "nhân nghĩa", "Điếu dân phạt tội" để làm việc bạo tàn, để xâm lấn, bóc lột, giết chóc.
Nhân nghĩa mà như thế ư? Đó chỉ là sự dối trá, là chiêu bài của bọn "hung tàn". Hành động của quân "cuồng Minh" là hành động diệt chủng, luận điệu "phù Trần diệt Hồ" chỉ là sự giả dối và tất cả những hành động bạo ngược của kẻ thù đã tự phơi bày bộ mặt giả nhân giả nghĩa. Đứng trên lập trường nhân nghĩa Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác "bại nhận nghĩa nát cả đất trời".
Và đứng trên lập trường chính nghĩa, Nguyễn Trãi khẳng định cuộc kháng chiến chống quân Minh là cuộc chiến tranh chính nghĩa, vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân. Người dân Đại Việt vốn yêu chuộng hòa bình, coi trọng tình hòa hảo các nước lân bang nhưng kẻ thù đã ngang nhiên xâm lấn, đã có những hành động bạo ngược khôn cùng. Vì thế chúng ta phải đứng lên.
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đứng trên lập trường nhân nghĩa Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác của kẻ thù, cũng trên lập trường ấy, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yêu nước thương dân. Nhân nghĩa là "An dân", Muôn dân yên thì phải tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc cho muôn dân, bởi vậy cuộc chiến tranh chống giặc Minh là cuộc chiến tranh chính nghĩa tiêu diệt bạo tàn.Trong xã hội phương Đông, nhân nghĩa là phạm trù cơ bản của đạo đức học.
Theo Khổng Tử "Nhân" là quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn; "Nghĩa" trách nhiệm đạo đức trong năm mối quan hệ đó. Trong đó quan hệ vua tôi là quan hệ trung tâm và đòi hỏi mọi người phải trung thành tuyệt đối với đạo lý ấy. Dân tộc ta không thừa nhận một cách tuyệt đối những điều ấy, và theo Nguyễn Trãi nhân nghĩa là thương dân, yêu dân, giúp dân trừ bạo. Tình bằng hữu, mối quan hệ lân bang giữa nước lớn và nước nhỏ là điều đáng coi trọng, nhưng khi xâm hại đến hạnh phúc của muôn dân thì kẻ quân tử cũng trở thành "cường bạo".
Kể cả vị hoàng đế nhà Minh, một kẻ được xem là con trời nhưng khi cầm quân xâm lược Đại Việt, gây ra những hành động bạo tàn thì cũng trở thành kẻ tiểu nhân và cũng bị Nguyễn Trãi chỉ thẳng tay vào mặt "Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng". Qua đây ta có thể khẳng định tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo chính là yêu nước, thương dân, là đạo lý làm người.
Nguyễn Trãi đã chiến đấu, đã khẳng định sự tồn tại của Đại Việt, đã mạnh mẽ khẳng định sự ngang hàng của Đại Việt với các triều đại Trung Quốc. Không còn quan hệ Thiên tử - Chư hầu mà là sự bình đẳng. Và một khi thiên tử làm điều bạo ngược thì Đại Việt sẵn sàng đứng lên để bảo vệ độc lập dân tộc. Cuộc chiến tranh chống quân giặc Minh là cuộc chiến tranh vì đại nghĩa, cuộc chiến tranh vượt qua cương thường của Nho giáo truyền thống.Điều đáng chú ý trong tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi ở Bình Ngô đại cáo là phương sách cứu nước. Nói về nguyên nhân thất bại của nhà Hồ, Nguyễn Trãi viết
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận.
Qua đây ta có thể thấy được nhà Hồ mất vương quyền chính là vì không được lòng dân, đi ngược lại quyền lợi của nhân dân, để nhân dân oán hận. Từ bài học ấy và cũng xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc, thấy được sức mạnh của dân là sức mạnh dời non lấp biển, ý dân là ý trời. Nguyễn Trãi đã chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân và cứu nước cũng là cứu dân thoát khỏi ách cường bạo.
Ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn đã phất lên trên cơ sở đường lối ấy. "yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, và cứu nước là để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người" (Phạm Văn Đồng "Nguyễn Trãi-Người anh hùng dân tộc").Vì nhân nghĩa mà Lê lợi, Nguyễn Trãi đã "đau lòng nhức óc", "Nếm mật nằm gai", "Căm giặc nước thề không cùng sống", dựng ngọn cờ thu phục nhân tâm.
Nhân dân bốn cõi một nhà
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sỹ một lòng phụ tử
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
(Bình Ngô đại cáo)
Trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò của nhân dân, đặc biệt của những người gọi bằng "manh lệ". Đây là một sự phát triển vượt bậc so với tư tưởng yêu nước của thời đại Lý- Trần. Trong Hịch tướng sỹ Trần Quốc Tuấn không phải không biết biết vai trò của nhân dân, nhưng chỉ mới nghĩ đến "Khoan dân" làm kế sâu rễ bền gốc, chưa thấy được sức mạnh vai trò của nhân dân và quyền lợi được hưởng cũng chỉ dành cho Vương hầu, Tướng sỹ.
Trong khi đó ta có thể thấy rõ ở tất cả các cuộc chiến tranh chống xâm lược, xét cho đến cùng yếu tố quyết định làm nên chiến thắng chính là nhân dân. Đến với Nguyễn Trãi, ta thấy ức Trai không chỉ nghĩ đến dân mà còn thấy được sức mạnh của nhân dân. Vì nước, vì dân ông luôn băn khoăn thao thức. Trong trái tim cuồn cuộn yêu thương, Nguyễn Trãi luôn dành cho dân những tình cảm thiết tha nhất.
Những lời văn thống thiết như máu cuộn trong tim, nỗi xót thương nhân dân sống trong cảnh lầm than cơ cực, những lời kết tội đanh thép của Nguyễn Trãi trước kẻ thù-những kẻ gây bao điều bạo ngược cho dân là minh chứng cho tình yêu thương nồng nàn sâu sắc của ông. Cứu nước là cứu dân, muốn phất cao ngọn cờ nhân nghĩa là phải dựa vào dân mà cứu nước là tư tưởng mà Nguyễn Trãi đã thể hiện trong Bình Ngô đại cáo.
Trong suốt bốn ngàn năm lịch sử cha ông ta đã biết phát huy sức mạnh của nhân dân, xem đó là cơ sở làm nên chiến thắng, là một việc rất cơ bản trong tư tưởng yêu nước, là đường lối chính trị đứng đắn hợp mọi thời, mọi đời. Phát huy sức mạnh của nhân dân, đoàn kết một lòng từ trên xuống dưới chính là nhân tố tạo nên chiến thắng trong các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Tư tưởng yêu nước trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo không chỉ là ở chổ phát động cuộc chiến tranh hợp thời, hợp quy luật, biết phát huy sức mạnh như vũ bão của quần chúng nhân dân mà còn là ở chổ biết dừng cuộc chiến tranh đúng lúc kịp thời. Như Nguyễn Trãi đã từng khẳng định "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân" lý do "Trừ bạo" là để "An dân"; "Điếu phạt" là để muôn dân được sống trong hòa bình. Thì nay cuộc chiến tranh dừng lại cũng chính là để "An dân". Vì thương dân mà "Đánh kẻ có tội" khi mục đích đã đạt ta phải để "dân nghỉ sức".
Với bản chất "Chí nhân đại nghĩa" ta đã kết thúc cuộc chiến tranh với tấm lòng nhân ái bao la. Người Việt có câu: "Đánh kẻ chạy đi, không đánh người chạy lại", tính mạng của con người rất đáng quý, dù họ là người dân Việt Nam hay Trung Quốc, vì thế "Thần Vũ chẳng giết hại", "mở đường hiếu sinh" đã thể hiện lượng khoan hồng cao cả. Rõ ràng sợi dây nhân nghĩa là mục đích khởi sự và cũng là cái đích cuối cùng. Tư tưởng nhân nghĩa cũng chính là tư tưởng hòa bình. Đây cũng chính là sự khẳng định bản chất "Chí nhân thay cường bạo".
Tư tưởng ấy đã khẳng định vẻ đẹp nhân nghĩa của người Việt Nam từ xưa đến nay, vẻ đẹp của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh. Mục đích đánh lại kẻ thù '' Diệt hung tàn" của chúng ta cũng chỉ vì yêu dân, yêu nước mà thôi.Nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi là yêu nước, cứu nước, cứu dân, chống giặc ngoại xâm, tiêu diệt bạo tàn vì độc lập của nước, vì hạnh phúc của dân. Hiểu chữ nhân và nghĩa như thế thì Khổng Tử, Mạnh Tử và toàn bộ Nho giáo chưa bao giờ hiểu rõ.
Nguyễn Trãi - một con người "đầu đội trời, chân đạp đất" - một nhà tư tưởng của thời đại đánh giặc "cuồng Minh", đã vượt qua được những hạn chế của Nho giáo truyền thống, vượt xa trên hành trình tư tưởng yêu nước của mình. Tư tưởng ấy, trí tuệ ấy đã kết tinh lại để Bình ngô đại cáo trở thành "Thiên cổ hùng văn".
Bình ngô đại cáo là tấm gương soi của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam. Là tiếng vọng của ngàn xưa và mãi mãi về sau. Bình ngô đại cáo khẳng định vẻ đẹp của con người Việt Nam, những con người đã sống, đang sống và sẽ sống như thế. Từ ngàn xưa, hôm nay và mai sau, chúng ta luôn tự hào về lối sống, bản sắc của dân tộc. Tình đoàn kết yêu thương, đùm bọc, gắn bó sẻ chia giữa con người với con người mãi mãi vững bền.
Tư tưởng yêu nước của cha ông ta, sự kế thừa và phát huy tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.Phát huy và kế thừa tư tưởng "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn", suốt bốn ngàn năm văn hiến, người Việt Nam đã khẳng định được sức mạnh của mình.
Dù thời đại đổi thay, phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam vẫn không hề thay đổi. Người Việt Nam vẫn một lòng yêu nước thương dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm lẽ sống, phấn đấu cho một xã hội phồn thịnh, công bằng, hạnh phúc, văn minh.