Bài văn phân tích tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" số 8
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu, với phong cách sáng tác giàu tính biểu tượng trong nền văn học nước nhà. Những tác phẩm của ông luôn khiến người đọc phải trằn trọc, suy nghĩ rất nhiều. Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" là một câu chuyện giàu sức gợi như thế. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.
Chiếc thuyền ngoài xa kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất biển này. Và từ chuyến đi này, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiếp anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi của người phụ nữ.
Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng là một người đầy nhọc nhằn, lam lũ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi "người đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch.
Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ". Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên, đầy nhọc nhằn, đầy khổ sở và đầy thương cảm. Người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người đọc bằng chi tiết "tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng", đã phần nào gợi lên sự chua xót, khốn cùng. Giữa cảnh biển mênh mông lại xuất hiện một con người khiến người khác phải trằn trọc như thế này.
Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi người chồng hằn học và mắng nhiếc. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.
Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Một vẻ đẹp đầy sự khó khăn, nhọc nhằn và đau khổ. Hành động bạo lực của người chồng khiến chị cứ câm lặng, không ai oán một lời. Và sự cam chịu ấy được lặp lại khi chị được gọi đến hầu tòa. Mặc dù "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" nhưng người phụ nữ ấy vẫn "không hé răng một lời".
Hình dáng "mụ ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại" càng khiến cho Phùng, cho Đẩu, và cho người đọc một nỗi ám ảnh khó bỏ. Tuy nhiên chỉ một lát, "người đàn bà lại lúng túng và sợ sệt". Có lẽ cuộc sống của chị quá nặng nề, quá thê lương trong những năm qua.
Tình tiết người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa càng toát lên vẻ cam chịu, sự nhẫn nại, giàu đức hi sinh "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó". Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao?
Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì.
Khi chị kể đến chi tiết "vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no" thì có lẽ người đọc ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng.
Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là "người đàn bà", có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta.
Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lẽ còn ảm ánh rất nhiều người nữa.
Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó. Hình ảnh người đàn bà làng chài trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" đã gửi gắm nhiều thông điệp đến người đọc về cuộc sống, phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ.
Bài văn phân tích tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" số 4
Một trong những cái tên nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới chính là Nguyễn Minh Châu. Ông được coi là người "mở đường tinh anh và tài năng nhất". Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý chân thực. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách ấy là 'Chiếc thuyền ngoài xa'.
Truyện ngắn được ra đời năm 1983, đến năm 1987 được in trong tập truyện ngắn cùng tên. Năm 1983 là thời kỳ độc lập của đất nước ta. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người. Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, 'Chiếc thuyền ngoài xa' đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến "lưới vó biến mất". Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể vầ phân tích hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến "giữa phá". Câu chuyện của người đàn bà hàng chài được kể tại đây. Phần ba còn lại. Tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.
Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Ai cũng biết, tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu chuyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện.
Tình huống truyện của 'Chiếc thuyền ngoài xa' là tình huống nhận thức. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyện được thể hiện qua hai phát hiên của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.
Đi vào phần một của truyện là một cảnh sắc thiên nhiên đẹp thơ mộng. Phùng đã chụp được một "cảnh đất trời cho": một chiếc thuyền lòe nhòe trong sương sớm với ánh mặt trời ban mai hồng hồng. Một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ. Đứng trước cảnh đẹp ấy, người nghệ sĩ thấy tim mình như có gì đó "bóp thắt vào". Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện -mĩ của cuộc đời.
Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân-thiện-mĩ, cái đẹp là đạo đức. Nhưng để hoàn thiện cho quan niệm về nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã để nhân vật của mình chứng kiến câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài. Đó là một con người hiện thân cho sự lam lũ đói khổ.
Từ trong chiếc thuyền đẹp như mơ kia bước ra một cặp vợ chồng. Người vợ "trạc ngoài 40", "mặt rỗ", "thân hình cao lớn thô kệch", "lưng áo bạc phếch", "gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới". Người đàn ông "có tấm lưng rộng", khuôn mặt "độc, dữ". Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Điểm đáng chú ý chính là cảnh bạo hành của hai con người này.
Người chồng thì đánh đập người vợ dã man, người vợ thì cam chịu trận đòn. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền. Chính từ cảnh tượng tàn bạo ấy, tác giả đã có thể gửi gắm thông điệp của mình. Đó là cuộc sống có nhiều nghịch lý mâu thuẫn, nếu chỉ quan sát bên ngoài hoặc ở xa thì không thể phát hiện được sự thật bên trong nó. Cái đẹp của nghệ thuật qua ống kính của người nghệ sĩ chưa thể đủ sức mạnh để làm nên đạo đức con người trong cuộc sống.
Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ. Người đàn bà hàng chài đã đươc chánh án Đẩu mời đến để khuyên chị li hôn với chồng.
Nhưng rồi những lời tâm sự của chị đã khiến không chỉ hai chàng trai mà cả người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều. Mặc dù bị đánh đập dã man "ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ" nhưng người phụ nữ vẫn quyết không bỏ chồng. Vì chị thương con, muốn đàn con được ăn no.
Vì thương chồng vất vả mà không giúp gì được nên chịu đòn mong có thể san sẻ được với chồng. Rồi chị tự nhận lỗi về mình, chị biết ơn chồng mình. Chị chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi "trên thuyền cũng có lúc sống vui vẻ hạnh phúc". Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điệp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền với cuộc sống.
Kết thúc câu chuyện, tác giả nhắc lại về bức ảnh chụp của nghệ sĩ Phùng nhằm nhấn mạnh sức ảnh hưởng của nó. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó.
Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện( nhân vật Phùng), "Chiếc thuyền ngoài xa" đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.
Bài văn phân tích tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" số 2
Với Nguyễn Minh Châu nhà văn tồn tại ở đời là để nâng giấc cho những con người cùng đường, tuyệt lộ, những người bị cái ác và sự xui rủi dồn đến chân tường tuyệt vọng, để bênh vực cho những con người không có ai bênh vực. Niềm khát khao bênh vực, bảo vệ những con người bị chà đạp, đày đọa hắt hủi như thế cùng với tấm lòng thiết tha truy tìm những vẻ đẹp tiềm ẩn sâu tận đáy tâm hồn của mỗi con người, đã trở thành nguồn sáng giúp Nguyễn Minh Châu viết nên tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, một trong những tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Tác phẩm chứa đựng những giá trị nhân văn, những triết lý sâu sắc về đời người bằng ánh nhìn đa diện nhiều chiều của tác giả, về mối liên quan chỉ cách nhau một ranh giới thật mỏng manh là hiện thực cuộc đời và nghệ thuật.
Nguyễn Minh Châu nổi tiếng với nhiều tác phẩm như Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau,… nhà văn Nguyễn Trung Thành từng ca ngợi "Nguyễn Minh Châu thuộc vào trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng" nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Suốt cuộc đời cầm bút, ông luôn trăn trở, tìm tòi cái hạt ngọc quý vẫn ẩn giấu trong tâm hồn của mỗi con người bình thường nhất.
Chiếc thuyền ngoài xa ra đời tháng 8/1983, in trong tập Bến quê (1985), sau trở thành nhan đề chung cho tập Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm là câu chuyện về chuyến công tác xa của một nhiếp ảnh tên Phùng, sau chuyến công tác ấy anh đã nhận ra những quan niệm mới mẻ về nghệ thuật, về cái đẹp và về đời người đầy những vết nham nhở, sần sùi.
Chiếc thuyền ngoài xa bắt đầu bằng một cốt truyện độc đáo và bất ngờ, nếu nói mạch cảm xúc và cấu tứ là cái để người ta vịn vào tìm hiểu nội dung của một văn bản thơ, thì tình huống truyện chính là một khởi điểm chắc chắn để khai thác, tìm tòi những cái đặc sắc của một tác phẩm văn xuôi.
Đó là những sự kiện éo le, bất ngờ, khác lạ để mở ra một câu chuyện dài ở phía sau, mà theo như ý của Nguyễn Minh Châu thì tình huống truyện là "cái tình thế mà ở đó sự sống hiện ra một cách đậm đặc, cái khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người". Từ tình huống truyện tính cách, số phận của nhân vật được gợi mở, cũng từ tình huống truyện mà chủ đề cũng như những giá trị mà tác giả xây dựng được hé lộ một cách tinh tế và độc đáo.
Trong chuyến công tác dài ngày, sau nhiều buổi sáng "phục kích" tại bãi biển thì cuối cùng may mắn cũng đã đến với nhiếp ảnh gia là Phùng, một "cảnh đắt trời cho" đã xuất hiện ngay trước mắt mà có lẽ suốt cả cuộc đời cầm máy ảnh anh chưa từng được thấy bao giờ, đó là một cảnh được ví như là "bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ". Phùng sướng điên người, đến mức giơ máy ảnh lên bấm "liên thanh" hết cả một phần tư cuốn phim.
Cảnh chiếc thuyền lưới vó cập bến, dưới cái ánh nắng "hồng hồng" tờ mờ hơi sương quả thực là tuyệt mỹ, khiến người ta lặng người, tim thắt chặt lại bởi cái sự "đơn giản và toàn bích". Như vậy phát hiện thứ nhất của Phùng chính là "khám phá ra cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn", rằng vẻ đẹp của nghệ thuật là đạo đức.
Nhưng những tưởng một cảnh đẹp ấy sẽ là mãi mãi không có một tỳ vết thì phát hiện thứ hai của Phùng lại dường như lật ngược lại vẻ toàn mỹ, phá tan đi cái sự toàn bích, toàn thiện, phá tan đi cái "im phăng phắc" của một buổi sớm mai đẹp đẽ bình yên. Một người đàn bà thô kệch, lam lũ lững thững bước ra từ "bức tranh mực tàu", một người đàn ông thô lỗ, cục súc bước theo sau kèm theo tiếng quát dọa "giết" thật đáng sợ.
Cảnh bạo lực gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng người đàn ông thẳng tay quất chiếc thắt lưng vào lưng người đàn bà, hắn ta vừa đánh điên cuồng vừa thốt những lời nguyền rủa độc địa "Mày chết đi cho ông nhờ! Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!". Không có một sự chống trả, người đàn bà lặng im chịu đựng trận đòn roi, không chạy trốn, dường như đã chai sạn, chán chường và nhẫn nhục.
Phùng chết sững bởi chỉ mới trước đó thôi những con người ấy còn đóng một vai trong cái cảnh toàn bích, hoàn mỹ, mà trước mắt bây giờ lại là hiện thực tàn nhẫn, điều ấy như giáng một cái tát đau điếng vào tâm hồn của người nghệ sĩ yêu cái đẹp. Với tâm hồn lương thiện và đạo đức của một con người Phùng quăng ngay máy ảnh, định lao vào can ngăn cái cảnh khốn nạn kia, thế nhưng bất ngờ hơn khi đứa con trai của họ đã lao vào giằng lấy thắt lưng của người bố đánh trả để bảo vệ mẹ, lão đàn ông cho nó một cái tát như trời giáng, rồi bỏ đi.
Ôi! Chuyện gì đang diễn ra giữa một buổi sáng thế này, Phùng bàng hoàng, Phùng sốc trước cảnh chồng đánh vợ, con đánh bố, rồi bố đánh con, thật hỗn loạn, phá nát hết cái vẻ đẹp tuyệt mĩ mà anh vừa mới nhận ra. Lúc này đây anh mới vỡ lẽ hóa ra ranh giới giữa cái vẻ đẹp toàn mỹ, toàn bích và sự thật nghiệt ngã xấu xa của cuộc sống chỉ cách nhau một bức màn mỏng manh, chúng chẳng thể chịu được sự tàn phá của hiện thực cuộc đời đầy xấu xí.
Hiện thực và nghịch lý cuộc sống hầu như thể hiện một cách rõ nét trên hình ảnh người đàn bà hàng chài, chị là hiện thân cho nỗi khốn khổ, nhọc nhằn của những người phụ nữ miền biển của nước ta sau ngày đất nước giải phóng không lâu. Cuộc đời người phụ nữ nào phải nói là quá bất hạnh khi phải gánh trên lưng ba nỗi khổ lớn, thứ nhất là ngoại hình xấu xí, dáng dấp cao lớn, "đường nét thô kệch", khuôn mặt lại chằng chịt những nốt rỗ sau một trận đậu mùa thời nhỏ, nét mặt thì nhợt nhạt vì thức đêm nhiều, lại phải lao động vất vả cả đêm.
Bà vốn xuất thân khá giả nhưng khốn nỗi vì quá xấu nên không ai lấy, bởi vậy nên việc xấu xí đã là một bất hạnh to lớn trong cuộc đời người phụ nữ. Sau khi lấy chồng, sinh con thì chị lại tiếp tục mang trên vai nỗi khổ nghèo túng, nhà đông con thuyền thì nhỏ, cuộc sống quá đỗi vất vả, nhọc nhằn, đến nỗi có những ngày đằng đẵng phải ăn cả xương rồng luộc chấm muối.
Cái nghèo đã hành hạ thể xác, còn hành hạ cả về tâm hồn của người phụ nữ này khi phải lo toan bộn bề cuộc sống. Sống vốn đã vất vả chị còn có nhiều con, mang nặng đẻ đau tới trên dưới mười đứa con tất cả, càng đẻ, cuộc sống càng khó khăn càng đè nặng trên đôi vai của chị, cuộc sống càng thêm túng quẫn. Đó là một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát.
Nghèo đói, đông con đã gần như làm đôi vai người đàn bà ấy sụp xuống thế nhưng chị vẫn phải tiếp tục chịu đựng sự vũ phu với những cơn đòn "ban ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" từ người chồng. Điều ấy không những đem lại đau đớn vô hạn về thể xác mà còn gây tổn thương sâu sắc đến tâm hồn của người đàn bà làng chài, khi bị người đầu ấp tay gối hằng ngày đánh đập, chì chiết. Và hơn cả là nỗi lo lắng về sự mất niềm tin, về những sang chấn tâm lý mà những đứa con nhỏ của chị phải gánh chịu, chị sợ chúng nó bị tổn thương ám ảnh về những kỷ niệm ấy thơ tàn nhẫn mà bố gây ra cho mẹ chúng nó.
Phùng chứng kiến cái cảnh khốn khổ của người phụ nữ bất hạnh, nhiều lần khuyên chị ly hôn để giải thoát khỏi cái gã chồng vũ phu, nhưng chị một hai không đồng ý. Bề ngoài chắc có nhiều người lắc đầu vì sự cố chấp của người đàn bà ấy, nhưng mấy ai có thể hiểu vén lên cái bức màn nghiệt ngã, thì bao nhiêu uẩn khúc, bao nhiêu cái bất đắc dĩ mới dần lộ ra.
Trong cái khốn khổ, bất hạnh của một người đàn bà xấu xí ta lại bất chợt nhận ra những vẻ đẹp tâm hồn thật đáng quý, chị không muốn bỏ chồng, trước là vì đã từng chịu ơn hắn ta, lòng biết ơn chồng vì đã cứu rỗi cuộc đời chị, đã cho chị một mái ấm gia đình mặc dù bây giờ nó cũng sứt sẹo, chẳng mấy hạnh phúc. Nếu như những người như thằng Phác, Phùng, chánh án Đẩu đều thấy lão chồng là một kẻ đáng ghét, man rợ, đáng bỏ thì chị lại cho rằng chồng chị là một người đáng thương cần được thông cảm, sẻ chia.
Chị nhớ về những ngày xưa, nhớ về những điều tốt đẹp của người chồng "cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi", vì trốn lính mà gia đình đâm túng quẫn , chính cái nghèo đói đã khiến chồng chị trở thành một kẻ vũ phu, cục súc. Người đàn bà khốn khổ vơ hết lỗi về mình "giá mà tôi đẻ ít đi", chị nhẫn nhục chịu đựng, lại có tấm lòng bao dung vô bờ bến, nhìn và thấu hiểu những nỗi khổ mà người khác gánh chịu để cảm thông, chỉ duy nhất chị không bao dung cho bản thân mình.
Người phụ nữ ấy hy sinh, nhẫn nhục cũng không chỉ vì lòng biết ơn, lòng thông cảm hay tình yêu với chồng mà trên tất cả là vì những đứa con thân yêu của mình. Lòng người mẹ lúc nào cũng bao la mà rộng rãi đến thế, chị còn phải nuôi hơn chục đứa con thơ dại, chị cần "một người đàn ông chèo chống lúc phong ba". Chị mặc định "ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ" cho nên họ "phải sống cho con chứ không thể sống cho mình", cả cuộc đời người đàn bà làng chài có lẽ chỉ có hy sinh, với chị nhìn con được ăn no cũng là hạnh phúc lắm rồi, rồi cũng có những lúc gia đình chị "hòa thuận vui vẻ".
Người đàn bà làng chài còn là một người có suy nghĩ thâm trầm sâu sắc, hiểu lý lẽ, thấu tình đời, chị dễ dàng nhận ra cuộc sống trong đôi mắt của Phùng và chánh án Đẩu quá ngây thơ, quá giản đơn. Chị dùng những lý lẽ hết sức thuyết phục, chị mở lòng nói về đời mình để cho hai người họ hiểu được rằng tại sao chị không thể bỏ chồng, chị cũng biết khổ biết đau đớn chứ, nhưng đã vào trong cái khốn khổ ấy người ta mới phát hiện có những chuyện không thể nào làm khác.
Đó chính là nghịch lý của cuộc sống, phải lúc này đây nhân vật Phùng mới thông suốt được, anh nhận ra rằng không thể giải phóng con người khỏi đói nghèo, khỏi bạo lực gia đình chỉ bằng lòng tốt và pháp luật . Cũng nhận thức được việc không thể chỉ dùng cái nhìn phiến diện một chiều để đánh giá toàn thể sự việc, mà phải dùng đôi mắt trực quan nhiều chiều để suy xét và tìm hiểu. Hơn cả là bài học rút ra rằng nghệ thuật phải gắn liền với cuộc đời, phải đi ra từ những hiện thực khốn khổ, phải đào sâu tìm kỹ, khai thác cho được cái hạt minh châu chôn giấu trong tâm hồn mỗi một số phận con người, đó mới là làm nghệ thuật chân chính.
Nguyễn Minh Châu, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng đều là những người có nhận thức rất sâu sắc và tinh tế về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nam Cao từng thốt lên rằng "Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…", còn Nguyễn Huy Tưởng viết trong Vũ Như Tô rằng: "Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi".
Nguyễn Minh Châu cũng đồng những quan điểm vậy, ông sâu sắc nhận ra rằng "Ngọc lành có vết, việc đời đa đoan", làm chi đâu có cảnh toàn bích, toàn mỹ, chẳng qua ấy chỉ là bề nổi, ẩn sâu sau đó là những hiện thực phũ phàng. Mà từ đó người nghệ sĩ phải dùng một đôi mắt đa diện, thấu hiểu để nhìn nhận những vẻ đẹp đạo đức và nhân văn, chớ nên chạy theo những vẻ đẹp dẫu hào nhoáng mà trống rỗng, vô hồn.
Bài văn phân tích tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" số 7
Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là nhà văn quân đội. Ông là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới (cuối thế kỉ XX). Những tập truyện ngắn: "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành", "Bến quê", "Chiếc thuyền ngoài xa", "Cỏ lau",… đã thể hiện sự tinh anh và tài năng nghệ thuật đặc sắc, im đậm phong cách tự sự – triết lí của Nguyễn Minh Châu.
Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" được tác giả viết vào năm 1983, xuất bản năm 1987. Nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, chánh án Đẩu, người đàn bà thuyền chài mặt rỗ và thằng bé Phác là những nhân vật được tác giả khắc hoạ khá sắc sảo, để lại cho người đọc bao ấn tượng, bao ám ảnh về màu sắc lãng mạn của nghệ thuật và sự thật trần trụi của đời thường.
Cảnh biển buổi sáng có sương mù mà anh "phục kích" mấy buổi sáng vẫn chưa tìm ra. Anh háo hức muốn thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh thì sáng nay anh đã gặp "hên" một cảnh "trời cho", có lẽ suốt một đời cầm mấy chưa bao giờ dám mơ tưởng đến.
Đó là cảnh "thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi…".
Trong ánh mắt của người nghệ sĩ, Phùng cảm thấy trước mặt mình là "một bức tranh mực tầu của một danh hoạ thời cổ". Bao mĩ cảm đã dâng lên dào dạt trong lòng, anh xúc động "bối rối", và trái tim của anh "như có cái gì bóp thắt vào". Đối diện với bức tranh "thật đẹp và toàn bích" ấy, nghệ sĩ Phùng cảm thấy vô cùng hạnh phúc, anh mới thấm thía "bản thân trong cái đẹp chính là đạo đức" như ai đó lần đầu đã phát hiện ra; trong giây phút bối rối đó, anh "tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn". Cái đẹp và nghệ thuật đã thanh lọc tâm hồn người, làm cho hồn người trở nên thánh thiện.
Và khi đã chạm tới gấu áo của vị thần nghệ thuật, Phùng đã bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh là vô cùng hạnh phúc, và anh đã "ngộ" ra – "hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại".
Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy. Chẳng phải Lầu Hoàng Hạc, chẳng phải là một chốn Bồng Lai mà chỉ là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải "rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa".
Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hoá hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hẫng.
Một cảnh đời ngang trái, quá phũ phàng và vô cùng tàn nhẫn đã diễn ra khi chiếc thuyền "đâm thẳng" vào bờ, vào ngay trước chỗ nhà nhiếp ảnh đứng. Phùng không chỉ nhìn thấy, được chứng kiến mà còn được tham dự vào những chuyện trớ trêu, đau lòng.
Còn đâu nữa cái màu trắng, màu hồng của bức tranh "toàn bích" khi một người đàn ông và một người đàn bà rời thuyền lội qua một quãng bờ phá đi lên bãi cát. Một tiếng nói chõ như quát cất lên: "Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ". Người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt…
Người đàn ông đi sau "lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền; mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, lông mày cháy nắng, rủ xuống",… Lão đàn ông "hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà".
Những gì xảy ra đã xảy ra sau đó. Bãi cát, nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở thành nơi hành tội. Khi người đàn bà "đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng" (có thể người mẹ nhìn mấy đứa con) thì một sự việc diễn ra vô cùng khủng khiếp! Lão đàn ông "trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay", hắn ***g lên như một con thú dữ. Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, cái vũ khí thường ngày của kẻ gần như mất hết cả nhân tính, "quật tới tấp vào lưng người đàn bà". Hắn "vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két".
Lão "trút cơn giận như lửa cháy" vào người đàn bà tội nghiệp, đáng thương. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn:"Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!". Mày và chúng mày mà lão nói đến là vợ con của lão. Thật kì lạ là người đàn bà khổ nạn ấy không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà "cam chịu đầy nhẫn nhục".
Hình ảnh đau lòng đó đã làm cho nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh "kinh ngạc", "đứng há mồm ra mà nhìn" trong mấy phút. Khi Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới thì có một thằng bé con giận dữ "như một viên đạn lao tới đích đã nhắm" lao thẳng vào cái lão đàn ông. Đứa bé với một sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, vung chiếc khoá sắt quật vào giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loăn xoăn của lão đàn ông. Giằng không được cái dây thắt lưng da, lão ta dang thẳng cánh cho thằng bé hai tát khiến thằng bé ngã dúi xuống cát.
Tiếng gọi: "Phác, con ơi!" của người mẹ tội nghiệp cất lên. Hình ảnh người đàn bà "ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy…". Và hình ảnh thằng nhỏ "lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ" lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt, tất cả đã làm cho nhà nhiếp ảnh Phùng, cho mỗi chúng ta tê tái bàng hoàng. Đứa con đến để cứu mẹ, để chặn bàn tay của con người thú.
Phùng "ngơ ngác nhìn" ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra "như trong truyện cổ quái đản", chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tầm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi?
Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí hoạ, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hoá cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt!
Với Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ở rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ chân lí cuộc đời có lúc, có nơi không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua"Chiếc thuyền ngoài xa" đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh.
Câu chuyện người đàn bà làng chài ở trụ sở toà án huyện đã lí giải cho Phùng và Đẩu, đã giúp chúng ta hiểu rõ sự thật trần trụi trước mọi bi kịch bạo hành trong gia đình, hiểu sâu hơn tấm lòng và tâm lí của người phụ nữ trong nỗi éo le cuộc đời.
Người đàn bà mặt rỗ lúc đầu chỉ dám ngồi ở góc tường, khi được Đẩu mời, mụ mới "rón rén" đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Khi nghe vị Chánh án nói, mụ ngước lên nhìn rồi lại "cúi mặt xuống". Có lẽ lần đầu đến cơ quan nhà nước, mụ mới sợ như vậy. Mụ chắp tay vái lia lịa Đẩu và xưng là con: "Con lạy quý toà…". Mụ nhấp nhổm xoay mình như bị kiến đốt! Nghe mụ van xin mà xót xa: "Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…".
Sống với một kẻ vũ phu, "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" thế mà mụ vẫn van xin quý toà "đừng bắt con bỏ nó". Chánh án Đẩu làm sao hiểu được nỗi éo le đó. Nhà nhiếp ảnh Phùng thì cảm thấy "ngột ngạt quá!". Khi nghe vị chánh án gọi bằng bà, và nói rõ chủ trương của toà án là kêu gọi hoà thuận, chị ta "ngơ ngác" nhìn Đẩu, nhìn Phùng, chị ta thay đổi cách xưng hô, tự xưng là chị, gọi Đẩu và Phùng là chú rất khẩn thiết, rất chân thành.
Mụ kể về thời con gái của mình, mụ tâm sự về chuyện lấy chồng của mình: mặt rỗ, xấu gái, không ai lấy, rồi có mang với anh con trai… "lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi". Mụ kể chuyện từ ngày cách mạng về đỡ khổ, chứ trước đây những lần động biển, vợ chồng con cái toàn ăn xương rồng luộc chấm muối suốt hàng tháng trời. Chị ta than thở gia cảnh nghèo, thuyền quá nhỏ…
Đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá; đàn ông ở thuyền hoặc uống rượu hoặc đánh vợ, bất kể lúc nào, hễ thấy khổ quá là xách vợ ra đánh. Chị ta cho biết nỗi vẫt vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông, nhất là những khi biển động sóng gió để chèo chống.
"Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được…". Chị cho biết chồng chị ngày trước cũng trốn đi lính nguỵ. Chị cũng có niềm vui là khi vợ chồng con cái "sống hoà thuận vui vẻ", "vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con được ăn no", v.v…
Sự nhẫn nhục, đức hi sinh của người đàn bà mặt rỗ thật bao la. Chị ta cam chịu khi bị chồng đánh. Chị ta chỉ xin chồng đừng đánh mình trước mặt đàn con. Chị ta sợ đứa con trai tên là Phác làm điều gì dại dột đối với bố nó nên phải gửi nó lên rừng ở với ông ngoại. Chị ta đã khóc khi nghe Phùng nhắc đến tên thằng Phác.
Chỉ qua những lời giãi bày chân thật đó, ta mới có thể hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục, đức hi sinh thầm lặng, tình thương con mênh mông của người đàn bà làng chài đáng thương; ta mới thấu hiểu được cái căn nguyên sâu xa của tệ nạn bạo hành trong các gia đình nghèo cực. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu, chỉ kí quyết định bắt người đàn bà mặt rỗ bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn chuyện đời một cách thấu suốt, rất nhân tình, rất đời, thì ta sẽ thấy cách nghĩ, cách sống, cách xử sự của người vợ, người mẹ ở trong truyện là không thể khác được.
Biết được đáy vực nông, sâu là đã khó. Biết được lòng người xấu, tốt, biết được nỗi lòng, nỗi đời, cảnh ngộ của con người đâu dễ! Qua câu chuyện người đàn bà ở toà án huyện, ta càng thấy rõ: không thể đơn giản, dễ dãi khi nhìn người, nhìn đời, khi đánh giá hiện tượng trong xã hội, trong cuộc sống. Không thể hấp tấp vội vàng. Nếu thiên kiến, định kiến, duy ý chí là sai. Có lòng tốt, ý định tốt chưa đủ. Mà phải suy xét, cân nhắc vừa có tình vừa có lí, vừa được việc vừa được người.
Truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" có nhiều tình huống rất bất ngờ hấp dẫn. Mỗi một tình huống xuất hiện, tính kịch của câu chuyện lại được nâng cao, được khắc sâu. Nhà nhiếp ảnh Phùng lúc đầu phát hiện ra hình ảnh chiếc thuyền chài hiện ra trong sương mù và đã bấm máy "liên thanh" hết một phần tư cuộn phim và ngây ngất trước cái đẹp của ngoại cảnh là một tình huống thơ mộng.
Chuyện người đàn ông chân chữ bát dùng dây thắt lưng lính nguỵ đánh mụ vợ mặt rỗ và thằng Phác đánh lại bố hắn để bảo vệ người mẹ thương yêu là một tình huống bất ngờ diễn ra trước mắt Phùng làm cho tính bi kịch đầy nước mắt.
Chuyện lão thuyền chài lại đánh vợ, đánh bị thương Phùng – kẻ dám đến can ngăn; chuyện chị gái cướp lấy con dao mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ tội nghiệp, đều là tình huống cực kì cay đắng, dữ dội. Câu chuyện của người đàn bà mặt rỗ kể ở cơ quan toà án huyện… là tình huống nói vệ sự éo le của cuộc đời, về thân phận tủi nhục đắng cay của người đàn bà nghèo, đông con ở làng chài.
Qua các tình huống đó, nhà nghệ sĩ Phùng mới thấm thía rằng: nghệ thuật không thể lãng mạn hoá, thi vị hoá cuộc đời khi cuộc đời còn đầy ngang trái. Chánh án Đẩu mới thấu hiểu toà án không chỉ để thực thi công lí, pháp luật mà con phải soi sáng lòng dân, tình dân. Và mỗi chúng ta mới hiểu: cuộc sống đã và đang diễn ra là vô cùng phức tạp, không thể đơn giản hoặc chỉ nhìn một chiều, một phía, một cạnh.
Tính tình huống đã làm cho truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" vừa chân thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc. Phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt… là một trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình Việt Nam lâu nay? Phải chăng Nguyễn Minh Châu đã kín đáo nói về một căn nguyên đầy nước mắt mà thi hào Nguyễn Du đã viết trong "Văn chiêu hồn" hơn hai thế kỉ trước:
"Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?"
Bài văn phân tích tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" số 10
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn lớn trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Hành trình sáng tác của ông được chia ra làm hai giai đoạn rõ rệt. Trước thập kỉ 1980, ông là ngòi bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn. Từ đầu thập kỉ 1980 cho đến khi mất, cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh đã trở thành mạch nguồi văn chương dồi dào trong ông.
Và "Chiếc thuyền ngoài xa" chính là một tác phẩm văn học nổi tiếng thuộc giai đoạn thứ hai, là đại diện tiêu biểu cho hành trình sáng tạo nghệ thuật lấy với tâm điểm là con người trong công cuộc mưu sinh, trong quá trình nhọc nhằn đi tìm hạnh phúc.
"Chiếc thuyền ngoài xa" kể về tình huống của nghệ sĩ Phùng khi anh đi tìm kiếm ngoại cảnh để chụp những bức ảnh đẹp ở một bãi biển miền Trung. Ở đây anh đã phát hiện một cảnh "đắt" trời cho mà có lẽ suốt một đời cầm máy anh chưa bao giờ thấy. Nhưng đằng sau bức ảnh thiên nhiên lãng mạn được phủ bởi lớp sương mù trắng có pha màu hồng là một sự thật nghiệt ngã về cuộc sống của một gia đình hàng chài.
Cảnh đói nghèo và bạo hành gia đình diễn ra ngay trước mắt. Hóa ra, cái đẹp của nghệ thuật không hề trùng khít với cái đẹp của cuộc sống. Trong buổi tòa ở huyện, nhiếp ảnh Phùng đã chứng kiến câu chuyện đầy cảm động của người đàn bà hàng chài hôm trước và cũng thông qua người đàn bà này, anh bắt đầu ngộ và vỡ lẽ ra nhiều điều trong cuộc sống.
Tác phẩm được mở ra bằng hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng. Phát hiện thứ nhất là về nghệ thuật, sau một tuần "phục kích" ở bãi biển, Phùng cũng đã tìm được cho mình một cảnh "đắt" trời cho. Bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và khoáng đãng hiện ra trước mắt, thu trọn cả tâm hồn anh "trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ", "toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào"…
Phùng đã không ngại ngần gì nữa mà bấm "liên thanh" như muốn đem tất cả những vẻ đẹp kia đặt trọn vào ống kính của mình. Cái đẹp bên ngoài của sự vật đã làm cho người nghệ sĩ kia ngẩn ngơ tức thì. Phát hiện thứ hai là về cuộc đời, ẩn giấu đằng sau vẻ đẹp nghệ thuật là sự thật đầy nghịch lí, xót xa. Phía sau bức tranh thiên nhiên tươi đẹp là bức tranh hiện thực đầy khắc nghiệt, lem lấm những bước đường mưu sinh của con người.
Đó là người vợ xấu xí, thô kệch, mệt mỏi và cam chịu. Đó là người chồng bạo hành, xem việc trút xuống vợ mình những cơn giận dữ bằng chiếc thắt lưng quật tới tấp xuống lưng là niềm giải tỏa "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!". Ẩn đằng sau cái đẹp toàn bích lại là sự tàn nhẫn khôn cùng. Tất cả hiện thực cuộc sống phơi bày trước mắt Phùng vô cùng bất ngờ, trớ trêu, quái ác.
Nguyễn Minh Châu ngay từ đầu cũng đã khéo léo đan cài điều ấy vào nhan đề "Chiếc thuyền ngoài xa" – cái tên dễ liên tưởng đến một cái tên khác: "ngoài xa" – "vào gần". Ngoài xa, chiếc thuyền là một biểu tượng của cái đẹp, của sự toàn bích, của khát khao thu trọn từng khoảnh khắc lãng mạn, nên thơ ấy bằng sự xúc động của một nghệ sĩ nhiếp ảnh.
Vào gần, đó là bức tranh cuộc sống vô cùng khắc nghiệt, gai góc và phức tạp khôn cùng, nó đã được bao phủ bởi lớp sương hồng mờ ảo mà nếu không chịu khó vén mở, tất cả đều bị đánh lừa. Phùng kinh ngạc trước hoàn cảnh đó, ban đầu "cứ đứng há hộc mồm ra mà nhìn", sau đó đã "vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới".
Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng đã mang tới ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm, có ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống. Trước hết, đó mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời. Đánh giá sự vật nếu chỉ dừng lại ở vẻ đẹp, vẻ hấp dẫn bên ngoài tức là bỏ qua chiều kích, ý nghĩa của bề sâu, là thoát li thực tại. Ta thấy, tiếp cận hiện thực ở khoảng cách "ngoài xa" khó lòng thấm nhuần được những câu chuyện đằng sau bức tranh phong cảnh khi "vào gần". Cũng cùng là một đối tượng, nhưng cách tiếp cận, thái độ tiếp cận khác nhau sẽ dẫn những muôn hình vạn trạng cuộc sống.
Câu chuyện người đàn bà ở tòa án huyện cũng là một nội dung quan trọng để mở ra những bài học sâu sắc cho người đọc. Số phận con người dần dần được thể hiện qua lời thoại của các nhân vật, từ đó mở ra chiều sâu triết lí cho tác phẩm. Qua lời kể của người đàn bà, Phùng dần có sự vỡ lẽ trong nhận thức, dần nhận ra sự đa chiều, phức tạp trong mỗi con người, mỗi hoàn cảnh.
Được tòa mời lên giải quyết việc gia đình, người đàn bà đã có mặt nơi toàn án, nơi làm việc của Đẩu – bạn thân của Phùng. Ban đầu, người đàn bà có vẻ lúng túng, đầy sợ sệt, xưng là "con" và gọi Đẩu là "quý tòa". Sau đó, chị đột ngột đổi sang xưng "chị", gọi Phùng và Đẩu là "các chú". Sự xưng hô ấy có một ý nghĩa đặc biệt, từ một người đàn bà nhỏ bé, cam chịu đã trở thành một người thầy, một vị quan tòa chỉ dạy Phùng và Đẩu cách nhìn đời, nhìn cuộc sống.
Ta thấy, dù chịu cảnh "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng", từ đầu đến cuối, người đàn bà vẫn không chấp nhận từ bỏ chồng, dù cho Phùng và Đẩu có tốn bao nhiêu lời khuyên răn. Cuộc đời của chị là trải dài của những bất hạnh, chị không chỉ sống cho riêng mình, mà còn vì chồng, vì con. Chị tự trách cảnh nghèo đói kia là do mình đẻ nhiều quá và cảm thông, thấu hiểu cho người chồng "lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi".
Chị hi sinh cả đời mình để sống cho con "đàn bà chúng tôi phải sống cho con chú không thể sống cho mình như ở trên đất được". Chị trân trọng, chắt chiu từng hạnh phúc nhỏ nhoi "vui nhất là nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Từ đó, ta thấy, hình ảnh người đàn bà không thể chỉ nhìn ngắm đơn giản bên ngoài, không phải chỉ là người phụ nữ cam chịu, là nạn nhân của bạo hành, là người sinh ra với những đau thương như số mệnh an bài mà còn là đại diện cho sự nhẫn nhục của người mẹ, người vợ; là đại diện cho tình thương và trách nhiệm với con, với chồng, với gia đình.
Bức ảnh của nhiếp ảnh Phùng chính là kết tinh của một quá trình thăm dò, khám phá hiện thực cuộc sống một cách đa dạng, nhiều chiều "tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi ảnh". Vẫn là hình ảnh "tấm lưng bạc phếch có miếng vá", hình ảnh người đàn bà trong bức ảnh của Phùng đã để lại những dư ba trong lòng người đọc mãi về sau.
Về nghệ thuật, trước nhất Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc xây dựng cốt truyện. Đó là cách tạo tình huống mang tính chất khám phá, phát hiện về đời sống, đặc biệt là thông qua hình ảnh người nghệ sĩ Phùng. Ban đầu, Phùng nhìn đời bằng con mắt của người nghệ sĩ. Sau đó, qua những biến cố, những sự kiện, nhận thức và cách nhìn nhận đã có sự biến chuyển, từ thơ mộng sang hiện thực, hiểu sâu hơn về người đàn bà, về chị em thằng Phác…
Bên cạnh đó, cách gọi tên phiếm định "người đàn bà hàng chài" như một cách gọi chung, nêu lên một số phận chung của những con người nhọc nhằn trong công cuộc mưu sinh. Cách miêu tả, xây dựng hệ thống ngôn ngữ phù hợp với những đặc điểm tính của nhân vật. Lão đàn ông hiện lên với dáng hình thô bỉ, tàn nhẫn qua ngôn ngữ hung bạo, tục tằn. Người đàn bà thô kệch, xấu xí, bất hạnh kia được dựng lên bằng sự dịu dàng, yêu thương con và sự thấu hiểu lẽ đời…
Qua tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa", chúng ta có thể hiểu vì sao Nguyễn Minh Châu được đánh giá là "thuộc trong số những nhà văn mở đường cho tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay". Thông qua các nhân vật trong truyện, nhà văn đã cho ta thấy hành trình khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự với việc đặt con người, cách nhìn con người lên làm trung tâm của sáng tạo văn chương, nghệ thuật.
Bài văn phân tích tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" số 1
Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả nổi tiếng của làng văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ông được coi là người "mở đường tài năng và tinh anh nhất". Trước năm 1975, ông là một cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài người lính.
Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư thế sự với vấn đề đạo đức, và triết lý nhân sinh. Ông khám phá con người trong cuộc đời mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc, khám phá hạt ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người. Tiêu biểu cho những kiếm tìm đề tài và trách nhiệm của người nghệ sĩ là tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, in trong tập truyện cùng tên năm 1987.
Truyện ngắn được ra đời tháng 8/1983 được in trong tập truyện ngắn cùng tên, khi cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc qua đi. Đất nước bước vào thời kì mới, thời kỳ độc lập thống nhất. Cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời sống, đặt ra nhu cầu nhận thức lại về hiện thực và cuộc sống con người trước đây do hoàn cảnh của chiến tranh chưa được đặt ra.
Là một tác phẩm đáp ứng được nhu cầu ấy, ''Chiếc thuyền ngoài xa'' đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Minh Châu và tiêu biểu cho cảm hứng đời tư thế sự, xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Truyện ngắn được chia thành ba phần. Phần một: từ đầu cho đến "lưới vó biến mất". Ở phần này, tác giả đi sâu vào kể về hai phát hiện của nhân vật Phùng. Phần hai: tiếp theo đến "giữa phá" là câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toàn án huyện. Và phần ba còn lại – tác giả nói về bức ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh tuyệt đẹp được người nghệ sĩ Phùng ghi lại vào một buổi sáng mờ sương ở một phá nước miền Trung. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, được cấp trên giao cho chụp một bức ảnh chủ đề thuyền và biển để đăng trong bộ lịch năm ấy.
Anh đã đi thực tế tại tại vùng biển miền Trung nơi trước kia đã từng chiến đấu và có người bạn ở đó. Khi đến đây anh bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đó là hình ảnh của thuyền và biển trong sương sớm. Đây cũng chính là tình huống độc đáo của truyện qua đó ta thấy được nhiều điều trong cuộc sống này. Nhưng sau bức tranh ấy Phùng lại có phát hiện mới.
Trước tiên, truyện ngắn này có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống là vấn đề then chốt đối với truyện ngắn. Nhà văn tìm được tình huống độc đáo sẽ khiến bạn đọc cuốn hút theo câu truyện. Tình huống chính là tình thế xảy ra câu truyện, khi nhân vật ở trong tình thế ấy sẽ bộc lộ rõ nhất bản chất, tính cách, phẩm chất của con người. Tình thế cũng có thể là bước ngoặt làm thay đổi số phận, nhận thức hoặc có khi bộc lộ ra những cốt lõi sâu thẳm tiềm ẩn trong truyện.
Tình huống truyện của 'Chiếc thuyền ngoài xa' là tình huống nhận thức, khám phá. Đây là một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống của truyện được thể hiện qua hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Tình huống đã giúp Phùng nhận ra được nhiều điều về cuộc sống, con người và nghệ thuật. Cuộc đời vốn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, bất ngờ và đầy nghịch lý. Cần đến gần cuộc sống để khám phá sự thực bên trong và chiều sâu bản chất. Cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều để hiểu rõ bên trong số phận và tâm hồn con người.
Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa. Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng là khung cảnh thiên nhiên hoàn mĩ, đẹp thơ mộng. Người nghệ sĩ phát hiện ra một vẻ đẹp trên mặt biển mờ sương. Đó là cảnh một chiếc thuyền trong buổi sớm mai đang dần tiến vào bờ Cảnh tượng khiến cho người nghệ sĩ cảm thấy may mắn và hạnh phúc khi được chứng kiến một bức tranh tuyệt vời đến như vậy. Nó giống như "một bức tranh mực tàu của một họa sĩ thời cổ". "Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe …chiếu vào". Vài bóng người lớn lẫn trẻ con đang dần tiến vào bờ.
Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến màu sắc ánh sáng đều hài hòa với nhau làm nên một vẻ đẹp toàn bích. Tác giả gọi đó là cảnh "đắt" trời cho, vẻ đẹp mà trong cuộc đời diễm phúc lắm may ra bắt gặp được một lần. Nghệ sĩ Phùng tự nhận ra rằng cái đẹp chính là đạo đức. Trước bức tranh mực tàu ấy Phùng cảm thấy bối rối trong tim anh như có cái gì đang bóp chặt lấy. Đó là khoảnh khắc trong ngần của cuộc đời.
Người nghệ sĩ cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc, anh thấy được cảm xúc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận được chân- thiện -mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình được thanh lọc trở nên trong trẻo và thanh khiết. Thông qua cảm xúc của nhân vật Phùng, tác giả đưa ra quan niệm về cái đẹp. Cái đẹp phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn, hướng con người đến cái chân-thiện-mĩ, cái đẹp là đạo đức.
Thế nhưng cảnh càng đẹp bao nhiêu thì thực tế cuộc sống lại đen tối bấy nhiêu. Đó chính là phát hiện thứ hai của Phùng trước khung cảnh tuyệt vời ấy. Hiện thực nghiệt ngã của con người với số phận bất hạnh của những con người nơi đây đặc biệt là người đàn bà hàng chài hiện lên. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là người phụ nữ xấu xí và người đàn ông hung dữ, cặp vợ chồng hiện thân cho sự lam lũ đói khổ.
Chính khuôn mặt nét người của họ đã nói lên phần nào cái cuộc sống khổ cực mà họ phải chịu. Người vợ "trạc ngoài 40", "mặt rỗ", "thân hình cao lớn thô kệch", "lưng áo bạc phếch", "gương mặt lộ rõ sự mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới" … dường như bao nhiêu sương gió nắng mưa của đất trời đã chiếu thẳng vào người đàn bà ấy vậy. Còn người đàn ông thì cũng chẳng hơn gì: "có tấm lưng rộng", đi chân chữ bát khuôn mặt "độc, dữ". Cả hai người đều là hiện thân của sự nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài.
Một cảnh tượng diễn ra khiến cho nghệ sĩ Phùng không thể nào tin vào mắt mình và cái cảnh đẹp kia bỗng chốc biến thành một hình ảnh vô cùng thậm tệ. Hai con người khổ sở ấy đi vào phía bãi xe tăng hỏng và thật bất ngờ trước cảnh tượng ấy: "Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ,mặt đỏ gay,lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng … lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà,lão vừa đánh vừa thờ hồng hộc,hai hàm răng nghiến ken két..".
Trong "chiếc thuyền ngoài xa", một sự thật còn trớ trêu,cay đắng nữa: Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù "Thằng bé chạy một mạch,sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông..liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực lão đàn ông". Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống sót xa.
Tấm ảnh về chiếc thuyền thì rất đẹp, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp. Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. "Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối" (Nam Cao). Những giọt nước mắt của người đàn bà hàng chài nhỏ xuống lấp đầy những nốt dỗ chằng chịt kia. Một cảnh tượng nghiệt ngã đối lập với cái cảnh đẹp như ngư phủ của con thuyền.
Với hai phát hiện ấy Phùng chợt nhận ra rằng cuộc đời không đơn giản một chiều mà chứa nhiều nghịch lý ngang trái, mâu thuẫn. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, đẹp và xấu thiện và ác. Ở đây nhà văn khẳng định đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài với nội dung bên trong. Khi nhìn nhận đánh giá cuộc đời thì phải có cái nhìn đa chiều nhiều phía.
Nếu truyện ngắn chỉ dừng lại ở đây chắc chắn sẽ không đủ sức hút có thể để lại dư âm trong lòng người đọc. Chính vì thế mà những tâm sự của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện được viết ra. Sau khi chứng kiến cảnh bạo hành dã man bên chiếc xe tăng hỏng, Phùng đã nói với chánh án Đẩu từng là chiến hữu của anh để nhờ giúp đỡ.Phùng và Đẩu đều có ý tốt mong cho người phụ nữ ấy thoát khỏi người chồng vũ phu.
Chính vì vậy người đàn bà hàng chài đã đươc chánh án Đẩu mời đến tòa án huyện và giải pháp được đưa ra là li hôn với chồng. Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện ban đầu chị tỏ ra rất sợ hãi khép nép sau khi nghe những phân tích và sự giúp đỡ của Đẩu thì chị bỗng bình tĩnh và thay đổi cách xưng hô không còn khép nép nữa mà nói ra những tâm sự những suy nghĩ của bản thân mình. Những lời tâm sự của chị đã khiến người đọc cũng phải ngỡ ngàng. Vẻ đẹp tâm hồn ẩn sâu bởi cái vẻ ngoài xấu xí, của người phụ nữ ấy đã khiến chánh án Đẩu và nhân vật Phùng nhận ra được nhiều điều.
Người đàn bà kể lại cuộc đời mình rằng: Trước kia bà cũng là một người con nhà khá giả, nhưng sau một trận thủy đậu làm cho bà dỗ hết mặt không ai thèm lấy bà. Khi ấy ông chồng của bà lại là người làm vườn. Bố mẹ mất đi người đàn ông ấy đã cứu vớt cuộc đời của bà chính vì thế mà bà bị đánh đập nhưng cũng không nỡ bỏ người chồng đồng thời cũng là ân nhân của mình. Hiện giờ cuộc sống của bà khổ về cả vật chất lẫn tinh thần.
Gia đình bà sống cùng nhau trên một con thuyền nhỏ. Con thuyền ấy vừa là phương tiện kiếm sống lại cũng là ngôi nhà che nắng che mưa. Bà thường xuyên bị đánh đập, ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng. Thế nhưng bà không hề chống lại chồng mình, cam chịu, nhẫn nhục, bà coi một việc bị đánh là một chuyện đương nhiên, thậm chí sợ các con nhìn thấy bà xin chồng đánh khi vào bờ.
Khi nghe những lời khuyên của Đẩu và Phùng, biết lòng tốt của họ nhưng bà nhất quyết không bỏ chồng vì người chồng là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của gia đình nhất là khi phong ba bão táp. Người đàn bà cần chồng vì còn phải nuôi những đứa con kia. Và hơn nữa trên thuyền cũng có những lúc gia đình hạnh phúc vui vẻ. Người đàn bà chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường khi nhìn thấy các con được ăn no.
Thị nhận lỗi, cho rằng đẻ nhiều con là cái tội của mình. Trong suy nghĩ của Phùng, Đẩu và thằng Phác người đàn ông kia là kẻ thô lỗ, độc ác, dã man đáng lên án. Nhưng với người vợ thấu hiểu và cảm thông, người đàn ông ấy cũng chỉ là nạn nhân, hắn trước kia hiền lành lắm, cũng vì cuộc sống nghèo khổ quá nên mới như vậy. Từ đó cho thấy người đàn bà hàng chài tuy là một người phụ nữ không học hành, xấu xí nhưng lại có một trái tim nhân hậu tiêu biểu cho nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt nam. Thị là người chấp nhận hi sinh để sống cho các con, một người vị tha và sâu sắc lẽ đời.
Trước những lẽ ấy thoạt đầu Đẩu và Phùng nghiêm nghị thấy bất bình nhưng về sau thì như vỡ lẽ ra nhiều điều.Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.
Cuộc sống này không chỉ sống cho riêng mình hay nó vốn là cái mình nhìn thấy trên bề nổi mà nó là phần chìm bên trong câu chuyện kia. Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài đã đem đến cho người đọc một thông điệp, một triết lý. Đó là phải nhìn mọi việc một cách toàn diện. Đó mới là cái giá trị đích thực của cuộc sống này. Từ một người đàn bà nhút nhát sợ hãi người đàn bà trở nên sâu sắc làm cho hai người đành phải để người phụ nữ ấy về với gia đình mình.
Câu chuyện kết thúc khi bức ảnh tuyệt bích được chọn in trong tấm lịch năm ấy và bức tranh còn được treo mãi trong những gia đình sành nghệ thuật. Điều này khẳng định giá trị nghệ thuật của bức tranh. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã đi sâu vào tiềm thức của Phùng như một trải nghiệm mà mỗi khi nhìn vào bức ảnh anh lại nhớ đến nó. Với anh, khi đứng trước bức ảnh đen trắng lại thấy một màu hồng trong buổi sớm ban mai và nhìn kĩ hơn nữa lại thấy bước ra từ trong tranh là người đàn bà hàng chài lam lũ.
Như vậy nếu hiểu bức tranh thuyền và biển kia là hình ảnh của nghệ thuật và người đàn bà hàng chài bước ra từ trong tranh là hình ảnh của cuộc đời thì Nghệ thuật và cuộc đời phải gắn liền với nhau. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống thì cũng phải gắn liền với cuộc sống. Nghệ thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.
Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc đời, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng), "Chiếc thuyền ngoài xa" đã để lại ấn tượng sâu đậm. Thành công của Nguyễn Minh Châu là đã đem đến cho người đọc một tác phẩm đầy tính triết lý và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật. Những triết lý luôn đúng với mọi thời đại.
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: "Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử".
Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi đời,nhất là người nghệ sĩ,không thể đơn giản,sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cách nhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự – triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Nguồn: https://topchuan.com/top-8-bai-van-phan-tich-tac-pham-chiec-thuyen-ngoai-xa-cua-nguyen-minh-chau/