Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" số 5
Trong tác phẩm Lục vân Tiên, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên hình tượng một con người lí tưởng với những vẻ đẹp toàn diện, mà nổi bật lên trong những vẻ đẹp đó chính là tính chính nghĩa cao đẹp. Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại phẩm chất tốt đẹp đó qua hành động trừ bạo cho dân.
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm trong phần mở đầu của tác phẩm. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên giã từ thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, Vân Tiên đã gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, bóc lột của dân lành. Một mình chàng đã đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga.
"Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay"
Trên đường về quê,Lục Vân Tiên đã bắt gặp cảnh chướng tai gai mắt, đó chính là sự hoành hành đầy ngang ngược của bọn cướp Phong Lai. Không tính toán thiệt hơn, được mất,Lục Vân Tiên đã bẻ cây bên đường làm gậy xông vào lũ cướp để giải cứu người dân lương thiện vô tội.
Không chỉ hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được con người đầy chính nghĩa của chàng "Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân", đó là lời cảnh cáo nhưng cũng là tuyên ngôn sống của chàng,người chân chính là phải bảo vệ nhân dân chứ không phải mang lại đau khổ cho họ.
"Phong Lai mặt đỏ phừng phừng
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây
Trước gây việc dữ tại mầy
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng"
Đang cướp bóc thì có người phá hỏng "chuyện tốt" của mình, Phong Lai đã vô cùng giận dữ, khuôn mặt của hắn "đỏ phừng phừng" cho thấy đây là con người bạo tàn, gian ác. Trước hành động chính nghĩa của Vân Tiên thì Phong Lai đã vô cùng coi thường mà buông lời thách thức đầy giễu cợt "Thằng nào dám đến lẫy lừng vào đây" và còn nói trước kết cục bi thảm của Tiên khi dám phá hỏng một vụ kiến trác béo bở của chúng "Trước gây việc dữ tại mày", sau đó hô quân kéo bầy bủa vây, tấn công Vân Tiên.
"Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay"
Trước sự tấn công của bọn Phong Lai, Lục Vân Tiên đã không hề nao núng mà tả đột hữu xung, với các miêu tả này ta vừa có thể hình dung ra những hành động nhanh chóng, chính xác, vừa thể hiện được bản lĩnh hơn người của Vân Tiên. Và trong cái nhìn của Nguyễn Đình Chiểu thì hành động anh hùng này giống như hình tượng đầy oan phong của Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang, lập được công trạng lớn. Bọn cướp Phong Lai chẳng mấy chốc bị đánh cho tan tành, sợ hãi mà tháo chạy, Phong Lai bị Vân Tiên trừng trị thẳng tay "thác dày thân vong"
"Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi ai than khóc ở trong xe này
Thưa rằng: Tôi thiệt người ngay
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ"
Sau khi đánh tan lũ cướp, Lục Vân Tiên quan tâm đến hỏi thăm người bị hại, nghe tiếng khóc sợ hãi từ trong kiệu, Vân Tiên đã cất tiếng thăm hỏi "ai than khóc ở trong xe này" thì trong xe vọng ra tiếng đáp của một người con gái, nàng đã kể lại hết sự tình cho Vân Tiên nghe, nàng là một người dân thiện lương, vì sa cơ nên mới lọt vào tay của bọn hung đồ "sa cơ nên mới lầm tay hung đồ". Nàng còn bày tỏ mong muốn gặp mặt,cúi đầu bày tỏ sự biết ơn trước sự hành động ra tay nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên:
"Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu tram lạy cứu cô tôi cùng"
Tuy nhiên, quan điểm sống của Lục Vân Tiên là "làm ơn há dễ trông người trả ơn" đã từ chối lời yêu cầu của Kiều Nguyệt Nga, và một lí do nữa được chàng đưa ra đó chính là sự khác biệt về thân phận, giới tính. Trong quan niệm phong kiến xưa thì "nam nữ thụ thụ bất thân", vì vậy nên Lục Vân Tiên không muốn cuộc gặp gỡ này ảnh hưởng đến tiết hạnh của Nguyệt Nga. Qua đây ta thấy được Vân Tiên là một con người sống chuẩn mực đối với những lễ nghĩa của phong kiến và là người biết quan tâm đến người khác:
"Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai"
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là đoạn trích hay, hấp dẫn đối với người đọc bởi sự chính nghĩa, ngay thẳng, kiên cường của Lục Vân Tiên, qua cuộc trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga ta còn thấy đây là con người có nhiều phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng.
Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" số 10
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước sống ở thế kỉ thứ XIX, cuộc đời ông gặp nhiều đau thương bất hạnh trong hoàn cảnh xã hội đương thời nhiều biến đổi lớn lao. Trong những thử thách ấy, sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Đình Chiểu lại là những dấu ấn tinh thần lớn lao của thời đại và xã hội ấy trong đó tác phẩm "Lục Vân Tiên" là một truyện thơ Nôm điển hình.
Hình ảnh người anh hùng Lục Vân Tiên là nhân vật trung tâm của truyện và được thể hiện khí phách nhất có lẽ là ở đoạn trích: "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga". Từ biệt tôn sư về đi thi, giữa đường lại gặp phải chuyện bất bình, Lục Vân Tiên không ngại ra tay tương trợ:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
Kêu rằng: "Bớ lũ hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".
Sự việc diễn ra thật bất ngờ, nhanh chóng bởi Vân Tiên chỉ là người qua đường thấy bất bình thì chẳng tha. Chàng dường như không kịp suy nghĩ, không lo đến an nguy của bản thân mà cứ thế xông vào dẹp tan lũ cướp cứu người. Chàng không hề biết trong kiệu là nàng Kiều Nguyệt Nga xinh đẹp con quan, chàng chỉ coi đó là người dân bình thường, không toan tính thiệt hơn, làm việc tốt xuất phát từ đáy lòng. Trước quân thù đông đảo cùng với một tên tướng hung dữ "mặt đỏ phừng phừng" chàng vẫn không hề nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Ta thấy hiện lên hình ảnh một người anh hùng đội trời đạp đất có sức mạnh và tài năng hơn người được so sánh như Triệu Tử Long- một vị anh hùng tiêu sái dũng mãnh đang oai hùng phá vòng Đương Dương. Đúng là khí phách của một chàng trai Nam Bộ cương trực, có phần liều lĩnh, thấy lũ cướp hoành hành hại dân là không giấu nổi sự tức giận của một đấng nam nhi mà ra tay dẹp lũ lâu la. Thật là can trường biết bao. Nguyễn Đình Chiểu quả đã xây dựng ở Lục Vân Tiên một khi chất của vị anh hùng tài đức mà nhân dân ta vẫn hằng mong ước.
Sau khi dẹp xong "lũ kiến chòm ong", Vân Tiên mới hỏi thăm đến người trong xe. Nghe được tiếng kêu than cảm tạ của cô hầu gái, Vân Tiên có lẽ đã đoán ra người ngồi trên xe là một tiểu thư nên chàng can ngăn:
"Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai."
Chỉ một câu nói này thôi, chàng thư sinh họ Lục đã để lại ấn tượng về một người đọc sách thánh hiền, hiểu rõ đạo lí nam nữ thụ thụ bất tương thân. Đó cũng tỏ ra là tôn trọng vị tiểu thư khuê các trong xe. Rồi chàng hỏi han sự tình về người con gái chưa thấy mặt kia. Cảm tạ trước ơn cứu mạng cùng sự ngay thẳng của Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga có ý đền ơn cho trọn. Nhưng ngay từ đầu, ra tay dẹp cướp là xuất phát từ lòng hiệp nghĩa, chứ đâu có ý nghĩa mong sẽ được lợi lộc gì, vì vậy Lục Vân Tiên cũng không có ý nhận báo đáp nên đã từ chối thẳng thừng:
Vân Tiên nghe nói liền cười:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn?
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng."
Người anh hùng này làm ơn nhưng không mong nhận ơn, chàng coi việc mình làm là chính đáng không so đo thiệt hơn, coi danh vọng tiền bạc chỉ là phù phiếm vô nghĩa. Chàng là sĩ tử nơi thi trường nhưng lại có khí phách hành hiệp trượng nghĩa của những kiếm khách hào hiệp trong thiên hạ. Cái cười sảng khoái của chàng chính là đã thể hiện chí khí của một nam tử hán đại trượng phu đáng khâm phục.
Bằng những từ ngữ hết sức giản dị, cách kể chuyện mộc mạc, dễ hiểu, văn phong trong sáng mang đậm những hiểu biết về đạo nghĩa, hình ảnh người anh hùng Lục Vân Tiên xuất hiện ý như một anh hùng của nhân dân, cho nhân dân và vì nhân dân.
Hình ảnh Vân Tiên đánh cướp được khắc họa thần tình. Cử chỉ, hành động, ngôn ngữ và cách ứng xử của chàng rất đẹp, mang phong thái người anh hùng, người tráng sĩ ngày xưa. Chúng ta không thể nào quên một Vân Tiên quả cảm, nhân hậu, chí khí của Cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu.
Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" số 7
Nguyễn Đình Chiểu sinh thời vào lúc loạn lạc, dù sớm đỗ đạt nhưng đến năm 26 tuổi đã bị mù, ông trở về làm thầy thuốc, làm một nhà thơ. Bằng tài năng và đức độ hơn người, Nguyễn Đình Chiểu đã khiến biết bao người ngưỡng mộ. Các bài văn thơ của ông dùng để khích lệ tinh thần chiến đấu và mang tính giáo huấn cao. Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ của ông.
Lục Vân Tiên được sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ XIX, thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa hình ảnh đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, ân tình. Nội dung chính của tác phẩm này là khi Lục Vân Tiên nghe tin triều đình mở khoa thi, chàng đã vội từ biệt thầy đi đua tài. Trên đường về, vô tình gặp cảnh Kiều Nguyệt Nga bị cướp chàng đã ra tay trượng nghĩa cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
Hình tượng Lục Vân Tiên được xây dựng theo mô típ quen thuộc của truyện dân gian, trượng nghĩa, anh tài, ra tay cứu giúp người bị nạn. Đây là nhân vật lí tưởng của văn học trung đại, thể hiện những khao khát mơ ước của nhân dân ta. Chàng mang lí tưởng lớn, lập thân lập danh giúp đời. Và trên đường về gặp chuyện bất bình, Lục Vân Tiên không hề ngần ngại mà ngay lập tức rat ay trượng nghĩa:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Dù chỉ có một mình, trên tay chỉ có cây gậy nhưng Vân Tiên dám đương đầu với lũ cướp vừa đông vừa rất hung hãn. Hành động đó cho thấy tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Trước sự dọa nạt của những tên cướp, Vân Tiên không hề nao núng: "Vân Tiên tả đột hữu xông/ Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang".
Hình ảnh chàng trong trận chiến hiện lên thật đẹp đẽ, như một dũng tướng phá tan kẻ thù. Hành động đó cũng cho thấy bản chất, tấm lòng cao thượng của chàng, vì nghĩa quên mình, một vẻ đẹp tiêu biểu của những người anh hùng.
Không chỉ là một người có tinh thần trượng nghĩa, mà chàng còn là người hết sức khuôn phép, lịch sử với người khác giới. Sau khi đuổi hết lũ lâu la, Vân Tiên còn tiến lại hỏi han, an ủi những người bị nạn. Không chỉ vậy, khi nghe nói họ muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt ngay đi:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Theo lễ giáo phong kiến giữa nam và nữ luôn phải giữ khoảng cách, "nam nữ thụ thụ bất thân", câu nói của Lục Vân Tiên tuy có phần nặng nề lễ giáo phong kiến nhưng cho thấy chàng là người cư xử hết sức đúng mực. Đồng thời nó cũng xuất phát từ chính đức tính khiêm nhường của Vân Tiên "Làm ơn há dễ trông người trả ơn". Việc mà chàng làm như là một việc đương nhiên, mà bất cứ ai thấy cũng sẽ hành động như vậy, bởi vậy, Vân Tiên không muốn nhận cái lạy tạ của người con gái và từ chối lời đề nghị về nhà của Kiều Nguyệt Nga.
Dường như với Lục Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán. Bởi chàng quan niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Vân Tiên là mẫu anh hùng lí tưởng, mà qua nhân vật này nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm nhiều niềm tin, mơ ước, khát vọng của mình.
Bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiên ta còn thấy một nàng Kiều Nguyệt Nga hết sức chừng mực, nết na, hiếu thảo. Nàng xưng hô rất khiêm nhường "tiện thiếp", cùng với đó là cách nói năng hết sức nhẹ nhàng, khuôn phép: "Làm con đâu dám cãi cha/ Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành" . Lời nói của nàng hết rõ ràng, mạch lạc, vừa đầy đủ thông tin vừa thể hiện niềm biết ơn chân thành với ân nhân đã giúp đỡ.
Đồng thời nàng cũng là con người biết cách ứng xử, có trước có sau. Việc Vân tiên cứu nàng đâu chỉ là cứu mạng sống, mà còn cứu cả một đời trinh bạch của người con gái, bởi vậy, nàng càng biết ơn Vân Tiên hơn. Cũng bởi thế nàng áy náy không biết lấy gì đền đáp công ơn to lớn đó: Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Và cuối cùng nàng đã quyết lấy thân mình, tự nguyện gắn bó cả đời với chàng trai hiệp nghĩa đó. Hàng ngày nâng khăn sửa túi để báo đáp ơn lớn của Vân Tiên đối với nàng. Những nét đẹp trong phẩm chất, trong hành xử của Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga tuy ngắn ngủi nhưng đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật: Lục Vân Tiên trượng nghĩa khinh tài, Kiều Nguyệt Nga thì nết na thùy mị. Hai nhân vật đại diện cho lý tưởng của nhân dân ta. Đồng thời qua các nhân vật này cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc của nhà thơ.
Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" số 9
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm nổi bật nhất của Nguyễn Đình Chiểu, tác phẩm này được đông đảo bà con yêu mến vì những đạo lý, những tư tưởng giáo huấn trong tác phẩm này. Ngay từ những câu mở đầu tác phẩm ngày Nguyễn Đình Chiều đã viết: "Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình". Và chỉ trong đoạn trích ngắn "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" ông đã thể hiện đầy đủ, rõ ràng quan điểm đó của mình.
Trong tác phẩm gồm hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Hai nhân vật gặp nhau trong hoàn cảnh, Kiều Nguyệt Nga gặp phải bọn cướp giữa đường, Lục Vân Tiên thấy chuyện bất bình đã ra tay cứu giúp. Hoàn cảnh gặp gỡ đặc biệt này đã giúp các nhân vật bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất của mình.
Trước hết về nhân vật Lục Vân Tiên, anh là một người có tinh thần trượng nghĩa. Ngay khi gặp người bị nạn, anh không trần trừ, suy nghĩ mà lập tức, sẵn sàng xả thân đánh cướp: "Vân Tiên ghé lại bên đàng/ Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô". Chàng chỉ có một mình, còn lũ cướp lại hết sức đông đảo, nhưng không vì thế mà Vân Tiên nhụt ý chí. Ở đoạn thơ này, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt, tạo không khí hào hùng áp đảo kẻ thù.
Các từ ngữ rất giàu giá trị tạo hình "tả đột hữu xông" cho thấy dáng vẻ oai phong, động tác nhanh nhẹn, chính xác của Vân Tiên khi chiến đấu với bọn cướp. Bằng sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm và võ nghệ cao cường Vân tiên đã phá tan bọn lâu la, làm cho chúng chạy toán loạn tứ phía.
Sau khi phá tan lũ cướp, Vân Tiên rất cẩn thận và chu đáo, đến hỏi han người bị nạn bằng những lời lẽ khiêm nhường. Qua những lời hỏi han, hành động sau đó của Lục Vân Tiên còn thấy chàng là người biết trọng lễ nghĩa:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Theo lễ giáo phong kiến con trai và con gái thường không được trực tiếp gặp nhau, hơn nữa đây là một người lạ, thì việc ấy càng phải thận trọng hơn. Thái độ đó của Vân Tiên cho thấy chàng là người hết sức giữ gìn lễ nghĩa, và cũng là vì nghĩ cho người con gái xa lạ. Đó là nét đẹp trong văn hóa ứng xử của một đấng quân tử.
Không chỉ vậy, Vân Tiên còn mang trong mình tinh thần hào hiệp của một bậc anh hùng. Nghe những lời giãi bày của Kiều Nguyệt Nga, mong muốn của nàng muốn báo đáp mình, Vân Tiên chỉ cười lớn, đó là tiếng cười vô tư, trong sáng. Sự vô tư, không tính toán ấy được thể hiện rõ nhất trong câu:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Đó là quan niệm về người anh hùng, làm việc nghĩa cứu giúp mọi người không màng bổng lổng, nếu chỉ suy nghĩ về những lợi ích mình được hưởng thì không còn là một người anh hùng thực thụ nữa. Quan niệm này cũng trở đi trở lại rất nhiều lần trong tác phẩm của ông như: Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn. Đây là một truyền thống đạo lí tốt đẹp, mà tác giả muốn truyền tải đến bạn đọc.
Lục Vân Tiên là hình tượng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của người anh dùng, vừa quả cảm, hào hiệp vừa nhân hậu. Đồng thời với nhân vật này, tác giả cũng thể hiện quan điểm về một người anh hùng phải là người có tài trí, sức mạnh và sẵn sàng hạnh động vì nghĩa lớn.
Ngoài nhân vật Lục Vân Tiên ta cũng không thể không nhắc đến Kiều Nguyệt Nga. Nàng là một người con gái nề nếp, có học thức. Nguyệt Nga vốn là khuê môn, lệnh các, xuất thân từ con nhà quyền quý. Nhưng không vì thế mà nàng tỏ ra kiêu ngạo, hợm hĩnh.
Đứng trước ân nhân của mình nàng hết sức khiêm nhường, cách nói năng kiêm xưng, gọi Vân Tiên là "quân tử", tự gọi mình là "tiện thiếp", hành động nhún mình "lạy, thưa". Qua đó cho thấy nàng là người con gái có học thức, thông minh, mực thước trong lời ăn tiếng nói. Không chỉ vậy nàng còn sống hết sức khuôn phép theo lễ nghĩa phong kiến. Theo lời cha mẹ, nàng đến tận miền Hà Khê để định bề nghi gia nghi thất không quản đường sá xa xôi, gặp biết bao hiểm nguy, vất vả. Nàng quả là người con có hiếu.
Là một người có học, nên Nguyệt Nga hiểu những quy tắc lễ nghĩa phong kiến, nhưng nàng vẫn muốn ra khỏi xe để đa tạ ơn cứu mạng của Lục Vân Tiên. Cho thấy tấm lòng biết ơn sâu sắc của nàng. Đáng quý hơn cả là nàng ý thức sâu sắc rằng không bạc vàng nào có thể xứng với ân nghĩa kia, qua đó cho nàng là người rất coi trọng tình nghĩa. Kiều Nguyệt Nga là kết tinh cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ truyền thống. Nàng không chỉ gia giáo, nết na, có học thức mà còn rất đằm thắm, nghĩa tình.
Tác giả sử dụng thể thơ lục bát thuần dân tộc, với ngôn ngữ giản dị mộc mạc, dễ đi vào lòng người nhưng vẫn hết sức sâu sắc, truyền tải những thông điệp ý nghĩa. Xây dựng tuyến nhân vật thiện ác rõ ràng, qua đó cũng thể hiện quan niệm của ông về con người.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga xây dựng thành công hai nhân vật đại diện cho những vẻ đẹp chuẩn mực của xã hội. Tác phẩm còn thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của ông. Tất cả vẻ đẹp nhân vật, những khát vọng ông gửi gắm đều phù hợp với phong cách sống, với mơ ước giản dị mà đẹp đẽ của nhân dân ta.
Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" số 6
Từ biệt tôn sư về đi thi, giữa đường bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoành hành, Lục Vân Tiên vụt dũng mãnh như chàng Thạch Sanh trong truyện cổ tích. Nhân vật ấy đọng mãi trong lòng người đọc là hình ảnh xả thân cứu Kiều Nguyệt Nga:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ,Chớ quen cái thói hồ đồ hại dân"...
Có cảm giác là sự việc diễn ra quá bất ngờ, nhanh chóng. Bất ngờ cũng phải thôi, vì Vân Tiên "giữa đường gặp cảnh bất bình", hoàn toàn ngẫu nhiên. Không kịp suy nghĩ, không kịp đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy, ra tay cứu giúp. Chàng là ai? Người được che chở không hề biết; chỉ biết chàng đang quyết liệt sống mái với lũ cướp đường. Quả thật, theo mạch truyện, chính Vân Tiên đã bị cuốn vào trận đấu một cách không chủ động.
Chàng có thể tránh xa nếu là người hèn nhát, có thể dửng dưng nếu là một kẻ ích kỉ...Vân Tiên đã không bàng quan, không để ngoài tai, ngoài mắt những điều trông thấy. Và sự bất ngờ "vào cuộc" của chàng tạo nên thế tự chủ vững vàng trong cái ngẫu nhiên ấy. Giá như Vân Tiên biết rằng người bị cướp tấn công là nàng Kiều Nguyệt Nga xinh đẹp, hiền thục; giá như chàng kịp dừng lại để suy nghĩ một chút thiệt hơn thì đoạn thơ sẽ mất đi cái hấp dẫn của tư thế chủ động "tả đột hữu xông; khác nào Triệu Tử mở vòng..." mạnh mẽ ấy.
Ta gặp một chàng trai Nam Bộ thực sự cương trực và... hơi liều lĩnh nữa; thấy cảnh bọn cướp "làm thói hồ đồ hại dân" là xống vào đánh hết mình, đánh bằng lòng căm hờn của một đấng nam nhi quả cảm, bằng tài võ nghệ điêu luyện. Hình ảnh Vân Tiên ngang tàng xông pha giữa đám đầu trâu mặt ngựa như biểu hiện của chính nghĩa đang trừng trị cái ác, cái xấu. Nhân nghĩa và can trường biết bao!
Không hiện lên trước mắt người đọc như một Từ Hải "vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", cũng không "vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa" như Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng qua lời nói, việc làm của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được ấn tượng đậm nét về chàng.
Làm ơn mà không màng được trả ơn là cách sống của người quân tử xưa nay; nhưng thái độ của Lục Vân Tiên trước tình cảnh và sự hàm ơn của Nguyệt Nga lại có những nét riêng rất đáng yêu. Mạnh mẽ, xông xáo trong cuộc chiến với lũ cướp bao nhiêu, chàng lại nhút nhát và e dè trước người con gái nhờ mình mà thoát nạn bấy nhiêu. Khi Nguyệt Nga định bước ra tạ ơn, Vân Tiên ngượng ngùng:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai...
Dẫu chưa nguôi sợ hãi, chắc rằng Nguyệt Nga khó mà giấu được nụ cười kín đáo trước chàng trai nhát gái này. Có lẽ người ta sẽ không buột miệng nói như thế nếu là một kẻ thạo đời, lọc lõi trong tiếp xúc với phụ nữ. Liệu hình ảnh Lục Vân Tiên có đẹp một cách trọn vẹn nếu như chàng tỏ ra vồ vập đối với Nguyệt Nga? Thì ra tâm hồn, bản chất chàng trai họ Lục thật trong sáng, tươi trẻ.
Càng đáng quý hơn nữa khi cái chất trong trẻo, hiền lành ấy ẩn chứa sau một tính cách khí khái, dũng cảm. Sự cứng rắn của thép, nét non nớt, thư sinh của chàng trai vừa bước vào đời hài hòa trong con người Vân Tiên. Không chỉ qua hành động, cách giao tiếp mà cách ứng xử cũng bộc lộ rõ phẩm cách của chàng.
Dám liều mình cứu người, lời lẽ đanh thép khi giao chiến với giặc cướp, để rồi trước một cô gái dịu dàng, Vân Tiên không tránh khỏi ngại ngùng bẽn lẽn - điều đó tự nhiên đã biểu lộ một lối sống lành mạnh, có giáo dục, nề nếp. Lời nói, thái độ khiêm nhường, nhã nhặn: "Làm ơn há dễ trông người trả ơn", "Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng"... vừa cho ta cảm cái tâm nhân ái, vừa khâm phục trước quan niệm sống trọng nghĩa của Vân Tiên.
Cái nhìn, cách nghĩ của nhà văn bao giờ cũng lộ rõ trong tác phẩm, trong cách thể hiện hình tượng, chi tiết... Có ý kiến cho rằng, cuộc đời Lục Vân Tiên là hình bóng cuộc đời nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Chỉ qua vài chi tiết nhỏ - Vân Tiên "bẻ cây làm gậy" có thể thấy được cảm quan hiện thực của nhà thơ. Không rút gươm, rút kiếm một cách oai phong như các binh tướng hay văn nhân quý tộc cao đạo, hành động của chàng chỉ mang tính dân dã, bộc trực.
Bất kì một người con trai bình dân nào cũng có thể bẻ cây làm gậy để làm việc nghĩa, không cầu kì, chẳng nề hà. Thực chất ở đây, Vân Tiên vẫn là một chàng trai có học, sống giữa những người lao động, chưa phải là một quan chức của nhà nước phong kiến như ở đoạn sau.
Ghi một cử chỉ ấy thôi, người đọc đã thấy rõ sự gắn bó mật thiết giữa tâm hồn, tình cảm của nhà thơ với cuộc sống nhân dân, hồn hậu như hạt lúa, củ khoai. Việc làm và cách nghĩ của Lục Vân Tiên như minh chứng cho quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu về lẽ sống ở đời:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Vẫn là những vần thơ mang đậm phong cách dân gian quen thuộc nhưng được tác giả gọt giũa và nâng cao, tạo được sự hấp dẫn, thích thú đối với người đọc, nhất là trong những lời đối thoại giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Lời thơ trau chuốt, không còn là thứ ngôn ngữ mộc mạc thường ngày:
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng...
Đây đúng là lời lẽ của một tiểu thư con nhà khuê các, có giáo dục. Và điều đó cũng chứng tỏ nhà thơ đã rất dụng công khi dùng câu chữ và có dụng ý khi thể hiện nhân vật.
Lấp lánh sau những câu thơ giản dị, hồn hậu là nét đẹp của phẩm cách, tấm lòng đáng quý, đáng phục của Vân Tiên, Nguyệt Nga... Đoạn thơ ngời sáng như chính cái tâm nhân ái của cụ Đồ Chiểu.
Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" số 2
Mở đầu Truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân san.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình...
Lời thơ giản dị, rành rẽ như một tuyên ngôn, định hướng cho bước đi của toàn bộ tác phẩm. Với nhà thơ xứ dừa ấy, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn chương mà trước hết, quan trọng hơn hết là vì mục đích giáo dục, truyền bá đạo lí, nhân cách con người.
Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được nhân dân ta - nhất là bà con ở Nam Bộ - yêu thích không phải vì có nhiều câu hay, lời đẹp, nghệ thuật tinh tế mà vì những chi tiết, sự việc, những nhân vật tỏa sáng đạo lí, vì những ý tưởng giáo huấn chân thành, thấm thía. Nội dung đạo lí bao trùm toàn thiên truyện là nhân nghĩa, là trung hiếu, tiết hạnh. Song đấy không phải những từ ngữ khô khan trói trong khuôn khổ phong kiến cổ hủ, nặng nề.
Với Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là căn cốt, gốc rễ để trau dồi, rèn giũa con người. Vì vậy, vào đầu tác phẩm - ở đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - nhà thơ đã hào hứng giới thiệu hai con người trẻ tuổi, biết hướng theo lòng nhân, biết hành động theo việc nghĩa.
Đó là Lục Vân Tiên - chàng trai tài ba dũng cảm, sẵn sàng làm việc "nghĩa". Vân Tiên vốn con nhà thường dân nhưng học giỏi, văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên con đường lên kinh ứng thi. Vậy mà gặp cướp. Không phải chúng gây sự với chàng, mà chúng đang quấy nhiễu nhân dân.
Trước mắt chàng, bày ra một nghịch cảnh : dân thì "than khóc tưng bừng - Đều đem nhau chạy vào rừng lên non" ; bọn cướp thì "xuống thôn hương - Thấy con gái tốt qua đường bắt đi". Thế là, sau một lời hứa ngắn gọn : "Tôi xin ra sức anh hào...", Lục Vân Tiên nhanh nhẹn "Ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy", xông thẳng vào giữa bọn cướp.Bọn cướp đông đặc. Tên tướng cướp "Mặt đỏ phừng phừng", dữ tợn như một con ác thú.
Chúng "Truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng". Lực lượng thật quá chênh lệch. Bèn kia là cả lũ lâu la đông như ong, như kiến. Bên này chỉ độc nhất một mình chàng trai dũng cảm với lời hứa chân thành "Cứu người ra khỏi lao đao buổi này", với vũ khí giản dị "cây gậy bên đàng". Vậy mà, chàng không chút nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Nhà thơ không tả tỉ mỉ trận giao chiến mà chỉ kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một đấu so sánh và dăm ba từ đặc sắc : "tả đột, hữu xông - Khác nào Triệu Tử..." đúng là một dũng tướng tài ba, đánh nhanh, kín võ, sánh ngang với Triệu Tử Long thời Tam quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở Đương Dang Trường Bản. Ngày xưa Triệu Tử Long chiến đấu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu, dù sao vẫn là nghĩa vụ của một bầy tôi trung thành.
Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, vì việc nghĩa... hành động đó thật giản dị, vô tư trong sáng và cao đẹp biết bao. Cuộc chiến đấu của chàng y như trận đánh của Thạch Sanh„ diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh của nhân dân, của điều thiện.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đêu quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, có chỗ còn thô mộc, song hồn thơ chan chứa dạt dào. Đọc Lục Vân Tiên, chúng ta thường gặp nhiều câu chữ chân mộc như thế. Thơ chân mộc nhưng cảm hứng tác giả vẫn bay bổng, mộng mơ. Ngỡ như người thi sĩ mù ấy vừa kể chuyện vừa rung đùi thích thú, gửi tới bạn đọc một lẽ phải nhãn tiền : Người có lòng nhân, biết làm việc nghĩa thì sẽ thắng. Kẻ độc ác, bất nhân sẽ thảm bại như thế đấy. Xuất phát từ lòng nhân, Lục Vân Tiên đã làm được một việc "nghĩa", một việc xứng đáng được gọi là anh hùng.
Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ,... tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không một chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính trực. Nghe cô hầu Kim Liên than thở nhưng vẫn còn hoảng sợ, Vân Tiên động lòng thương, an ủi : "Ta đã trừ dòng lâu la".
Rồi ôn tồn, chàng thăm hỏi ngọn ngành từ tên họ, gia cảnh đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Trong lời chàng, có ý còn lạc hậu, ảnh hưởng quan niệm phong kiến "Nam nữ thụ thụ bất thân", song tất cả đều chân thành, duns dị, rất đáng mến. Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe cô tiểu thư Kiều Nguyệt Nga (nạn nhân được chàng cứu giúp) kể lể, thở than, ca ngợi và tha thiết muốn đền ơn, thì: Vân Tiên nghe nói liền cười
"Cái cười đáng yêu, đáng kính sao ! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều nở trên môi Vân Tiên" (Xuân Diệu - Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu). Sau nụ cười đáng yêu ấy là lời nói, cũng rất đáng yêu :
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ - nôm na, giản dị. Nó cất lên từ một cõi lòng chất phác. Chất phác, là cái bên ngoài là cái vỏ xù xì, thô nháp. Nhưng phía trong, phần ruột thì cao đẹp, thắm đỏ, ngọt ngào thơm thảo một quan niệm nhân sinh rất hào hiệp, vô tư của một lớp người, một thế hệ con người. Chúng ta hiểu lời của Lục Vân Tiên như thế nào ?. Trước hết, chàng khẳng định việc mình làm là hoàn toàn tự nguyện.
Gọi là ơn cũng được. Hay nên xem đó là việc "nghĩa" ? Làm việc "nghĩa" thì không nên đợi trả ơn, tính hơn thiệt,... vì "ơn nghĩa" là lẽ thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, người hướng về nghĩa khí, lấy nghĩa lớn, lấy chữ nhân, lòng nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động.
Chàng đã hành động vì nghĩa lớn trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng chỉ mong Nguyệt Nga cũng như mọi người "rõ đặng nguồn cơn" - nghĩa là hiểu rõ, cảm thông với hành động của chàng. Sau nữa, chàng nhắc tới sử sách, nhắc lời các bậc hiền nhân xưa. Người xưa nói : "Kiến ngãi bất vi vô cùng dã". Nghĩa là "Thấy việc nghĩa mà không làm, không phải người dũng cảm".
Cách nói của chàng giản dị hơn: "Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy cũng phi anh hùng". "Phi anh hùng" là những kẻ tiểu nhân, hèn nhát. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm là đúng đắn, là tất yếu, hiển nhiên, thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của minh.
Đó cũng là lẽ sống của biết bao hiền nhân, quân tử ngày xưa, và bao con người chân chính ngày nay. Lời chàng, nhân cách của chàng, gợi nhớ Từ Hải, nhân cách Từ Hải trong Truyện Kiều : "Anh hùng tiếng đã gọi rằng - Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha". Thế đấy, Lục Vân Tiên thật dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài, tiêu biểu cho những chàng trai Nam Bộ.
Còn Kiều Nguyệt Nga là một cô gái hiền hậu, nết na biết trọng nghĩa tình. Sau khi được cứu thoát khỏi tay bọn bất nhân, độc ác, nàng vô cùng xúc động. Nàng đã nói những lời đẹp nhất để cảm ơn ân nhân :
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Nói "Tiết trăm năm" là nói việc hộ trọng của cả một đời người. "Lạy rồi sẽ thưa" cũng là một thái độ kính nể, thiêng liêng trong quan hệ của con người. Một cô tiểu thư vốn quen được yêu chiều, quen được bảo vệ, chở che mà xử sự như thế, hạ mình như thế, đâu phải chuyện dễ dàng. Nguyệt Nga là tiểu thư - con quan tri phủ - nàng được giáo dục chu đáo, nàng gắn bó với những người dân, nên tiếp nhận được đạo đức của nhân dân.
Đạo đức ấy là chữ "ân", chữ "nghĩa". Do đó, sau những phút giao đãi mở đầu, nàng thẳng thắn bày tỏ ý nguyện đền đáp công lao cứu mạng của Lục Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có cái gì lúng túng, ngượng ngập, nhưng chất phác, "nghe thánh thót bên tai giọng nói của cô gái miền Nam" (Xuân Diệu):
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nguyệt Nga nói tới "của tiền", "vàng bạc" để giãi bày sự thiếu hụt về vật chất. Lại nói tới "báo đức thù công" - đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở "Lấy chi cho phí tấm lòng..." để giãi bày sự lúng túng vé tinh thần, những xúc động có thật của một tâm hồn trong trắng. Sau đó Nguyệt Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn. Nhưng chàng từ chối. Nàng băn khoăn, day dứt khôn nguôi.
Chỉ đến khi thấy "Vân Tiên nghe nói liền cười..." và an ủi: "Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy cũng phi anh hùng", Nguyệt Nga mới khuây khoả hỏi thăm gia cảnh tuổi tên của vị ân nhân. Vậy đấy, ngay phút gặp gỡ ban đầu với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã tỏ rõ một tâm hồn trung hậu, nết na. Tâm hồn ấy bắt nguồn từ đâu, nếu không phải từ đạo lí nhân nghĩa của nhân dân ta, nhất là nhân dân Nam Bộ cùng quê hương với Nguyễn Đình Chiểu. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng : Lục Vân Tiên là Truyện Kiều của nhân dân Nam Bộ.
Vân Tiên, Vân Tiên, Vân Tiên,
Cho tôi một tiền, tôi kể chuyện thơ...
Những nghệ sĩ hát rong vùng đồng bằng sông Cửu Long, thường giáo đầu bài hát Lục Vân Tiên bằng câu ca như thế. Ngay sau đó, buổi diễn xướng dân gian được đông đảo bà con hưởng ứng, quây tròn quanh người kể chuyện. Người diễn, người nghe giao hoà, say đắm hàng giờ, hàng buổi. Một trong những đoạn truyện được mọi người yêu thích là đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Ngư.
Yêu thích không phải vì văn chương chải chuốt, nghĩa lí thâm trầm như Truyện Kiều, mà trước hết vì : đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của Nguyễn Đình Chiểu và khắc họa phẩm chất đẹp đẽ của hai người trẻ tuổi - Lục Vân Tiên tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài ; Kiều Nguyệt Nga nết na, nhân hậu, ân tình.
Tất cả những vẻ đẹp ấy của đoạn thơ phù hợp với phong cách sống, với ước mơ, khát vọng giản dị mà trong sáng của nhân dân ta, mãi mãi dạy chúng ta bài học đạo đức thiết thực và cao cả biết bao.