Được tạo bởi Blogger.

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2020

Top 5 Bài văn phân tích tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi

0 comments
Nguyễn Thi (1928 -1968) là nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam, là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học Việt nam thời kì chống Mỹ cứu nước. "Những đứa con trong gia đình" là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi tác giả công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng. Truyện kể về những người con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương cách mạng. Chính sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến cứu quốc. Để rõ hơn vẻ đẹp của tác phẩm, mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết sau.

Bài văn phân tích tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" số 3

Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông được mọi người gọi với cái tên rất gần gũi "Nhà văn của người dân Nam Bộ". Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm gắn liền với tên tuổi của ông. 

Trong những tác phẩm đặt sắc ấy nổi lên truyện ngắn "Những đứa con trong gia đình" (Năm 1978). Truyện viết về những ngày chiến đấu gian khổ, khó khăn của chiền trường miền Nam. Qua đó, người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Thi.

Thật vậy, nhan đề "Những đứa con trong gia đình" mang một hàm ý sâu xa của tác giả. Truyện kể về những đứa con trong gia đình có truyền thống cách mạng là gia đình hai chị em Chiến và Việt. Gia đình ấy cũng chính là hình ảnh thu nhỏ của miền Nam Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ.. 

Nguyễn Thi đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo: Việt - một anh giải phóng quân sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, ông nội và cha mẹ anh đều bị chết dưới tay kẻ thù. Chính mối thù nợ nước, nợ nhà không đội trời chung đó đã thúc đẩy anh tham gia cách mạng. Trong một trận đánh, Việt bị thương, lạc đồng đội, ngất đi tỉnh lại rất nhiều lần. Mỗi lần ngất đi tỉnh lại, quá khứ và hiện tại lại đan xen nhau trong tiềm thức của anh. 

Ở lần tỉnh lại thứ 4, kí ức về mẹ hiện về. Việt nhớ lại cảnh hai chị em tranh nhau đi tòng quân. Việt đòi đi nhưng chị Chiến không cho. Anh nhờ chú Năm giúp đỡ. Chú đồng ý cho hai chị em Việt đi tòng quân. Chị Chiến thu xếp mọi công việc trước khi hai chị em lên đường… Trở về với thực tại, sau 3 ngày tìm kiếm, anh Tánh và đồng đội đã đưa Việt về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Sức khỏe Việt dần hồi phục.

Có thể thấy, truyện được kể theo dòng nội tâm của nhân vật Việt. Nguyễn Thi đã để cho đứa con tinh thần của mình hồi tưởng lại đứt quãng sau mỗi lần anh ngất đi tỉnh lại ở chiến trường. Tuy dòng cảm xúc không được trôi chảy mạch lạc song ở mỗi lần Việt tỉnh dậy lại là một câu chuyện chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm này, chúng ta sẽ phân tích từng nhân vật một. 

Ở mỗi nhân vật mà nhà văn nhắc tới đều có một biểu tượng riêng về tình yêu quê hương, tình yêu đất nước. Trong đó, tình yêu gia đình làm nền tảng để cho gia đình Việt tuôn chảy một tình yêu bất diệt với quê hương. Những thành viên trong gia đình đều rất gan góc, dũng cảm, có lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ giàu tình nghĩa thủy chung, son sắt với quê hương, với cách mạng. Mỗi một nhân vật trong truyện đều được Nguyễn Thi tả rất đặc sắc, hấp dẫn người đọc.

Trước hết, nhân vật Việt được coi là trung tâm của câu chuyện hiện lên thật chân thực và sắc nét. Anh là đứa con tiêu biểu của gia đình. Việt là một chiến sĩ giải phóng quân sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân giàu truyền thống cách mạng. Khi những người thân bị chết dưới tay giặc đều là những người việt yêu úy nhất: ông nội, ba mẹ. Gia đình chỉ còn lại chị Chiến, chú Năm, thằng út em với người chị nuôi đi lấy chồng xa. 

Việt hăng hái tham gia tòng quân giết giặc trả thù cho người thân, bảo vệ quê hương. Ở Việt ta luôn thấy được đó là "cậu tư" gan gạ, muốn lập nhiều chiến công như chị. Qua dòng hồi ức của Việt khi ngất đi tỉnh lại, ta còn thấy được, anh là một người tính tình trẻ con, vô tư, nghịch ngợm của tuổi mới lớn. Anh hay tranh giành với chị mình chuyện bắn tàu giặc Mĩ trên sông Định Thủy, anh có hành động "đá trái dừa rụng xuống mương" khi chị không cho đi tòng quân, sợ câu chuyện "con ma cụt đầu" mà chị hay kể. 

Đặc sắc nhất là cảnh hai chị em thu xếp mọi thứ để lên đường tòng quân. Khi ấy, Việt chỉ "lăn kềnh ra ván cười khì khì" trong khi chị Chiến lo toan mọi thứ. Cảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm là một hành động chứng tỏ Việt đã trưởng thành, sẵn sàng đối đầu với quân địch. Cái cách Việt thương chị mình cũng rất đáng yêu " Giấu chị như giấu của riêng"… 

Ta còn bắt gặp một hình ảnh Việt gan dạ, quả cảm khi đi bộ được hai năm, anh đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch hay lúc anh bị thương, lạc đồng đội, anh không hề sợ mà vẫn rất bình tĩnh, với tư thế hội tụ đủ phẩm chất của người lính cụ Hồ, anh "đạn đã lên nòng, ngón tay còn lại sẵn sàng nổ súng.

Có thể thấy, Nguyễn thi đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Việt - đứa con cưng tình thần của ông với những tính cách đáng yêu, dễ mến, vô tư đời thường, ga dạ quả cảm trong chiến đấu. Nhà văn tiếp tục lia ống kính của mình để khắc họa hình tượng nhân vật Chiến - chị của Việt - một người con gái cũng giống như Việt trải qua hoàn cảnh bi thương nhưng sớm trưởng thành, già dặn trước tuổi. 

Ở chị ấy được thừa hưởng những nét đẹp từ người mẹ. Đó là người con gái gan dạ, đảm đang, tháo vát nhưng cũng căm thù giặc sâu sắc. Chiến tòng quân ra chiến đấu trong một tiểu bộ đội nữ địa phương. Chị chiến đấu dũng cảm, coi cái chết cũng chỉ như "chết giấc" với câu nói bất khủ "Nếu giặc còn thì tao mất" và cô đã trở thành tiểu đội trưởng quân địa phương. Chiến vừa làm ba, vừa làm mẹ, vừa làm chị để chăm lo, lấp đầy khoảng trống cho các em. 

Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện trong nhà đã được cô sắp xếp đâu vào đó khiến cho chú Năm cũng phải hết sức ngạc nhiên mà thốt lên: "Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non". Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của người đi trước đối với lớp người trẻ kế cận họ. 

Việc cô ngăn không cho em đi tòng quân không phải vì sợ Việt tranh cướp công lao của cô mà cô hiểu rất rõ, với vai trò của người đi trước, co đã tham gai kháng chiến, cô hiểu rất rõ sự tàn khốc của chiến tranh nó ghê gớm đến nhường nào, cô sợ Việt bị thương. Qua đó, người đọc thấy được tình yêu ruột thịt máu mủ sâu sắc đến nhường nào. Nó là phương thuốc hữu hiệu nhất để gắn kết mỗi thành viên trong gia đình lại với gần nhau hơn.

Ta thấy Chiến hiện lên thật giản dị, thật đẹp dưới cái nhìn phác họa đầy lí tưởng của tác giả. Ở cô gái trẻ ấy hội tụ mọi vẻ đẹp của người con gái Việt Nam "đảm việc nước, giỏi việc nhà". Chính những sự hi sinh thầm lặng mà lớn lao của người phụ nữ ấy đã góp phần vào thắng lợi của dân tộc.

Thật là thiếu xót nếu như không có nhân vật chú Năm. Chính chú Năm là hiện thân của truyền thống, là khúc thượng nguồn trong "dòng sông truyền thống" của gia đình Việt. Chú là người ghi lại tất cả những sự kiện diễn ra trong gia đình. Ở chú Năm hiện lên một hình ảnh người lao động chất phác nhưng giàu tình cảm. Chú cũng biết hò và Việt là nơi gửi gắm những câu hò của chú. 

Chú Năm ghi chép cẩn thận và đầy đủ tội ác của giặc đối với dòng họ, gia đình mình và chiến công của các thành viên trong gia đình. Khi Chiến và Việt chuẩn bị lên đường, chú đã giao cuốn sổ cho hai chị em. Cuốn sổ đó tuy nhỏ nhưng rất ý nghĩa. Nó là thước phim ghi lại một cách chân thực, chi tiết nhất những chiến tích của gia đình và tội ác của quân giặc. Nó dấy lên lòng căm thù giặc, món nợ lớn nhất phải trả. 

Cùng với chú Năm, má Việt cũng là hiện thân của truyền thống. Là người phụ nữ gan góc, rất mực thương chồng con và có lòng căm tù giặc sâu sắc. Mỗi lần bọ lính bắn dọa "mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông vượt biển". Má Việt đã ngã xuống song hình ảnh người phụ nữ ấy luôn bất tử trong lòng các con.

"Những đứa con trong gia đình" đặt trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là một truyện ngắn đặc sắc bởi giọng văn trần thuật khắc họa miêu tả tâm lí nhân vật Chiến, Việt, Chú Năm…, Nguyễn Thi đã dựng nên một gia đình có truyền thống yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc, mối thù nợ nước nợ nhà. Qua đó, tác giả giúp người đọc thêm đồng cảm với cảnh ngộ éo le, thêm yêu thương quý trọng gia đình, biết ơn công lao của những người cách mạng.

Tóm lại, truyện ngắn "Những đứa con trong gia đình" thể hiện rõ tài năng của Nguyễn Thi trên nhiều phương diện. Truyện không những phác họa thành công hình tượng của người con yêu gia đình, yêu quê hương đất nước mà còn thể hiện tình yêu của chính tác giả vào những đứa con tinh thần của mình. Ông xứng đáng được coi là "Nhà văn của người dân Nam Bộ".

Bài văn phân tích tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" số 8

Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với cuộc sống và chiến đấu anh dũng của quân và dân miền Nam. Các sáng tác văn học của Nguyễn Thi tập trung phản ánh hiện thực đấu tranh dữ dội, quyết liệt của người nông dân Nam Bộ chống để quốc Mĩ xâm lược và tay sai, giành độc lập tự do và thống nhất đất nước. 

Những đứa con trong gia đình được Nguyễn Thi viết trong những ngày chiến đấu ác liệt vào tháng hai năm 1966. Truyện ra đời trong bối cảnh lịch sử đó nên tác phẩm của Nguyễn Thi là một bức tranh sử thi đồ sộ, hoành tráng về con người Nam Bộ trong chiến đấu nói riêng và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ nói chung.


Tính chất sử thi không phải là các khái niệm thể loại hay chỉ quy mô của tác phẩm, mà là một tác phẩm phản ánh cuộc sống của con người thời đại đã được phủ lên một màu sắc sử thi. Tính chất sử thi là một đặc điểm của dóng văn học sáng tác trên nền tảng của ý thức cộng đồng toàn dân xuất hiện vào thời kì đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta với thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.

Tính chất sử thi thể hiện ở xung đột trong tác phẩm văn học là xung đột giữa toàn dân với kẻ thù xâm lược. Chủ đề cơ bản có tính sử thi là tình cảm yêu thương, trân trọng, ngợi ca dân tộc nhân dân, tổ quốc truyền thống anh hùng trong quá trình đấu tranh giành độc lập, tự do. Lập trường sử thi là nhà văn vì lợi ích của dân tộc, cộng đồng. Nhân vật có tính sử thi là nhân vật anh hùng đại diện cho phẩm chất ý chí và sức mạnh của dân tộc, đặc biệt là các hình tượng hãnh tụ, hình tượng chiến binh, hình tượng người mẹ.

Giọng điệu có tính sử thi cơ bản là giọng ngợi ca, tụng ca; giọng khẳng định và cổ vũ nhân dân chiến đấu. Tình cảm có tính sử thi chủ yếu là tình yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu bộ đội… Do các đặc điểm này mà các khía cạnh đời sống khác như đời sống cá nhân, sinh hoạt đời thường, các hiện tượng tiêu cực… đều được nhìn nhận theo xu hướng sử thi. Tác phẩm không phản ánh những vấn đề số phận cá nhân mà phản ánh số phận, phẩm chất của cả cộng đồng trong đời sống hiện tại.

Sử thi ở đây không phải là vấn đề thể loại mà là khuynh hướng sử thi Những đứa con trong gia đình mang khuynh hướng sử thi. Vấn đề phản ánh trong tác phẩm tập trung vào một gia đình có truyền thống cách mạng tiêu biểu cho nhân dân Nam Bộ và cả nước trong kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm có ý nghĩa rộng lớn đó, trước hết là do các thành viên trong gia đình mà nhà văn phản ánh có ý nghĩa điển hình xã hội và nghệ thuật sinh động.

Ý nghĩa khái quát, bao trùm, sức khái quát hóa nghệ thuật lớn lao bao giờ cũng vượt lên khỏi phạm vi đề tài ở những tác phẩm có sức sống lâu bền trong lòng độc giả. Gia đình của Chiến và Việt là một gia đình điển hình của người dân Nam Bộ trong kháng chiến chống Mĩ. Câu nói của chủ Năm "chuyện của gia đình ta nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó" đã khái quát một trong những phương diện cơ bản nhất của chủ đề truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.

Qua thiên truyện ngắn này, Nguyễn Thi đã khám phá, phân tích và lí giải sức mạnh, chiến công của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Những đứa con trong gia đình có chung huyết thống và truyền thống nên có những nét giống nhau từ hình dáng, khuôn mặt, tính cách và tâm hồn. Chị Chiến giống má ở hình dáng đến tính cách gan góc, đảm đang tháo vát. Ngay cả việc sắp xếp nhà cửa, ruộng vườn của Chiến đêm trước ngày đi tòng quân cũng không khác gì má nếu má còn sống, khiến Việt thấy "in như má vậy". 

Chiến và Việt đều có "hai bộ mặt bầu bầu cùng một khuôn có hai cái chót mũi hơi hớt lên". Họ đều là những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước căm thù giặc sâu sắc, thủy chung son sắt với cách mạng, quyết tâm đánh giặc tới cùng, dẫu "còn cái lai quần cũng đánh". Đó là các "chất Út Tịch" trong họ.

Họ yêu thương đùm bọc nhau, ai cũng tự hào về truyền thống của gia đình và viết tiếp truyền thống đó. Trong truyện ngắn liên tục chảy từ thế hệ cha anh đến thế hệ của những người chiến sĩ trẻ anh dũng thời kì chống Mĩ cứu nước. trong quan niện của Nguyễn Thi, mỗi người con, mỗi đời người trong một gia đình phải là khúc sông trong một dòng sông truyền thống. Tuy nhiên vì "mỗi người một khúc" nên ai cũng có nét tính cách riêng, không ai giống ai.

Mỗi nhân vật đều có ý nghĩa điển hình cho phẩm chất anh hùng và ý chí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ gia đình, quê hương, đất nước của nhân dân miền Nam. Đầu tiên phải kể đến nhân vật chú Năm. Trong dòng sông truyền thống của gia đình chú Năm là khúc thượng nguồn. Đây là một hình tượng đẹp. có ý nghĩa tượng trưng về truyền thống gia đình. Chú là một người đàn ông Nam Bộ ham sống, ham bến, sống thực thà bộc trực và vui tính, tính cách cũng rất mạnh mẽ, phóng khoáng quyết đoán.

Chú rất vui mừng khi cả hai đứa cháu đều muốn đi bộ đội. Chú bước lên xin ghi tên cho cả hai chị em Chiến và Việt và nói: "Tôi xin một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong?".

Không hề tính toán đến cá nhân, chú luôn dạy dỗ, động viên, nhắc nhở các cháu: phải giết giặc để dành độc lập. Chú hiểu rằng vận mệnh của đất nước của dân tộc không thể tách rời hạnh phúc cảu mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Chú lập cuốn sổ gia đình, chờ cho hai cháu khôn lớn, trao cuốn sổ thiêng liêng này ở thời điểm hai đứa cháu. Chú hứa: "Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày".

Cuốn sổ gia đình và người chú như một khích lệ thi đua lập công giết giặc của những đứa cháu. Chú bảo: "Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước" rồi "chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi nước mắt",. Chú biết các cháu ra trận là ranh giới giữa sự sống và cái chết thật mong manh. Gia đình của chú đã mất đi những người yêu thương nhất và có thể chú cũng mất đi những đứa cháu mà chú coi như là con đẻ của mình.

Là người lao động chân chất nhưng tâm hồn chú bay bổng, dạt dào. Chú hay cất giọng hò để gửi gấm tâm tình, ước mơ để nhắn nhủ các cháu. Chú năm là biểu tượng cho truyền thống gia đình, là lời nhắn nhủ của cha chú cho các cháu về cuộc đấu tranh giành độc lập và hạnh phúc của gia đình.

Tiếp đến là Chiến – chị gái của Việt – cô cháu gái gan gộc của chú Năm. Chiến là cô gái có những nét ngoại hình và tính cách giống hệt mẹ. Người mẹ có thể ngã xuống vì bom đạn kẻ thù nhưng má sẽ tái sinh trong máu thịt và sống lại trong cuộc đời của những đứa con. Nguyễn Thi có ý thức tô đậm nét thừa kế người mẹ ở nhân vật Chiến.

Chiến cũng có một vóc dáng chắc nịch đủ sức để vượt qua gian khổ như má. Ba má đều mất sớm, hơn em trai có một tuổi nhưng Chiến đã tỏ sự già dặn, khôn ngoan, biết lo toan quán xuyến cho gia đình thật hợp lý, chu đáo. Nhà chỉ còn ba chị em phải trông nom, bảo ban nhau. Chiến tỏ rõ vai trò của một người chị cả đảm đang.

Ngày Chiến và Việt ghi tên tòng quân, chỉ còn thằng Út em mới mười tuổi vì thế nhà cửa, ruộng vườn phải thu xếp cho hợp lý. Những xếp đặt của Chiến cho thấy cô thực sự là một người lớn. chín chắn, biết suy nghĩ. Cái giờ phút thiêng liêng giữa đi và ở, giữa cuộc sống ở nhà và nơi quân ngũ, giữa quen và lạ khiến Chiến thao thức không ngủ được.

Suy nghĩ và hành động của Chiến bộ lộ nét đẹp cảu con người vì cộng đồng. Chiến bàn với Việt để nhà cho "xã mở trường dạy học", "giường quán cũng cho xã mượn làm bàn ghế học". Ruộng đất do cách mạng cấp trao lại chi bộ cho bà con cô bác khác làm. Chuyện công và chuyện tư đều được Chiến tính toán thấu đáo. Các dụng cụ gia đình như chén, cuốc, vá, đèn, soi, nơm, gửi chú Năm để chị Hai muốn gì thì lấy, hai công mía nhờ chú Năm đốn để dành làm giỗ má.

Hai chị em quyết định khiêng bàn thờ gửi chú Năm để yên tâm đi chiến đấu. Cuộc sống thiếu mẹ đã tôi luyện Chiến già dặn, chắc chắn, khôn trước tuổi. Biết cậu em trai của mình còn vô tâm, vô tư lắm, nhưng Chiến vẫn bàn bạc với em một cách kĩ lưỡng, nghiêm trang. Má anh hùng đẻ ra con anh hùng. Là nữ nhi nhưng khí phách của Chiến không khác trang nam nhi thời loạn. Chiến biết tội ác của kẻ thù không hề phân biệt nam nữ, già trẻ… Vì thế đã làm người Việt Nam phải góp công, góp sức cho kháng chiến.

Chiến không chịu nhường em đi bộ đội, không chịu thua em về khí phách. Những câu nói của Chiến trong đêm trước ngày đi xa là lời thề như dao chém đá: "Chú Năm nói mày với tao đi kì này là ra chân trời, mặt biển, xa nhà ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về thì chú chặt đầu"; "Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!".

Nhân vật Chiến là mẫu nhân vật tiêu biểu cho thời kì kháng chiến chống Mĩ. Đó là những Võ Thị Sáu, nguyễn Thị Minh Khai,… những nữ anh hùng con cháu của Trưng Trắc, Trưng Nhị. Tính lịch sử của mẫu hình nhân vật toát lên vẻ đẹp tinh thần cũng như những hi sinh cao cả.

Con sóng vươn xa nhất, ca nhất trong dòng sông truyền thống gia đình là Việt. Việt mới mười tám tuổi, bắn chim, câu cá, bắt ếch… Việt rất thích. Bao giờ Việt cũng giành phần hơn chị. Gia đình mà truyền thống yêu nước và cách mạng như một sợi dây xâu chuỗi thế hệ nọ với thế hệ kia đã sinh thành nuôi dưỡng Việt. Những hình ảnh về người thân bị kẻ thù giết hại hằn sâu trong tâm trí Việt hun đúc nên lòng căm thù ngùn ngụt. tinh thần quả cảm đã hình thành trong Việt từ rất sớm.

Trong trận đánh đầu đời, mặc dù bị thương rất nặng, nhưng sự chịu đựng ở cậu chiến sĩ trẻ này rất khâm phục. Khắp người Việt không có chỗ nào không thương tích. Việt "cảm thấy tê dại tay chân. Khắp người, nước hay máu không biết, chỗ ướt sũng, chỗ dẻo quẹo, chỗ khô cứng […].

Trời tối kì lạ, Việt cho mũi lê đi trước, rối tới hai cái tay, hai cái chân nhức nhối cho nó đi sau cùng. Sau đó Việt bò gấp qua những cái gì nữa không cần biết. Cậu cũng  "quên khắp cả người đang rỉ máu". Trong mơ và thực tình cảm về người thân, về đồng đội là nguồn lực sức mạnh tinh thần to lớn cho Việt.

Trong hoàn cảnh đó người chiến sĩ giải phóng quân vẫn bình tĩnh, chủ động không hề run sợ. Hiện tại và cảnh ngộ riêng, thật khủng khiếp dễ đẩy con người vào trạng thái hoảng hốt, lo âu. Nhưng tâm trí vẫn đưa Việt trở về với những kỉ niệm đẹp của những ngày đã qua. Biết căm thù dữ dội và Việt cũng yêu thương tha thiết những người thân, những người đồng đội đồng chí.

Tình yêu quê hương đất nước không phải cái gì lớn lao mà nó bắt nguồn từ tình thương với những người xung quanh ta. Mẫu số chung của những con người trong gia đình Việt là truyền thống gia đình, là lòng căm thù quân xâm lược. Yêu thương và căm thù đó là hai nguồn sức mạnh tạo nên tính cách đặc biệt ngoan cường ở nhân vật Nguyễn Thi. 

Ngòi bút của nhà văn đậm chất dữ dội, thực tế khốc liệt và bão táp cách mạng đã tạo cho họ, những nhân vật sử thi của thời đại ngày nay. Họ không phải là những anh hùng do thời đại sản sinh mà đó là những anh hùng, từ sự tiếp nối và phát huy truyền thống, nếp nhà, một di sản thiêng liêng mà bao thế hệ trước đã bàn giao lại cho lớp con cháu.

Cảm hứng về con người trong tác phẩm của Nguyễn Thi là cảm hứng sử thi, cảm hứng ngợi ca những con người Nam Bộ anh hùng. Đây là một đặc trưng thi pháp truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 nói chung và truyện ngắn của Nguyễn Thi nói riêng.


Những đứa con trong gia đình không chỉ phản ánh chân thực đời sống mà còn khắc họa được những tấm gương oanh liệt mãi mãi sáng ngời mà nó mang đậm khuynh hướng sử thi. Ý kiến nhận xét trên là hoàn toàn xác đáng. Nó cũng là nhận xét chính xác khái quát chung cho toàn bộ sáng tác của Nguyễn Thi và văn học Việt Nam thời chống Mĩ.

Bài văn phân tích tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" số 10

Những đứa con trong gia đình, một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nguyễn Thi. Trong tác phẩm này, ông đã dựng lên một tập thể anh hùng, dũng cảm, và trong tập thể đó, nổi bật nhất chính là hình tượng hai nhật vật Việt và Chiến. Thế hệ tiếp bước truyền thống gia đình, làm rạng danh truyền thống của dòng họ.

Hai chị em Việt Chiến là hình tượng chính, có sự tương đồng về lứa tuổi lại cùng được hun đúc, nuôi dưỡng từ một gia đình. Nên giữa hai chị em có rất nhiều điểm giống nhau. Trước hết ở họ cùng mang lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức giết giặc để trả thù trong gia đình lúc nào cũng sục sôi.

Trong tác phẩm, tác giả xây dựng nhiều chi tiết để thể hiện lòng căm thù giặc của hai chị em Việt, Chiến song chi tiết cảm động nhất là khi hai chị em khiêng bàn thờ má sang nhà chí Năm. Trong thời khắc đó Việt đã nhìn thấy rõ lòng mình: "Còn mối thù thằng Mĩ còn có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai". Lòng căm thù giặc vốn là một khái niệm trừu tượng, vô hình nay đã được Việt hữu hình hóa, có sức nặng cụ thể. Và khi mối thù đó đè năng trên vai cậu càng quyết tâm hơn nữa giết giặc, trả thù cho gia đình.

Việt và Chiến còn là những chiến sĩ xông xáo trên mặt trận, gan dạ dũng cảm lập được nhiều chiến công. Chị Chiến mặc dù là con gái song chị mang trong mình ý chí, quyết tâm rất cao. Ra đi đánh giặc, chị chỉ mang theo một tâm nguyện: "Ta là thân gái, ra đi chỉ một câu này: Nếu giặc còn thì ta mất". Tinh thần quyết tâm chiến đấu đến cùng với giặc ngoại xâm, đồng thời còn cho thấy sự mạnh mẽ, kiên cường của người phụ nữ nông dân Nam Bộ. 

Đây cũng là ý nguyện của toàn bộ thanh niên miền Nam lúc bấy giờ: "Ra đi chỉ một lời thề/ Chưa giết hết giặc chưa về quê hương". Còn Việt, anh tham gia chiến đấu khi chưa đủ tuổi tòng quân, nhưng Việt đã chứng tỏ mình là một chiến sĩ vô cùng dũng cảm. Sự dũng cảm ấy được thể hiện trong lần anh ôm cả bầu pháo lao vào xe tăng địch; thể hiện trong lần Việt bị thương nằm giữa rừng, dù các giác quan gần như tê liệt, chỉ duy nhất một ngón tay còn cử động anh vẫn để sẵn vào cò súng, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. 

Sự dũng cảm của Việt không chỉ thể hiện rõ trong chiến đấu mà còn thể hiện trong quan niệm về cái chết: "Chết là đau gấp mấy lần bị thương; chết là người thật bay lên nóc nhà còn người giả nằm dưới đất", Qua niệm có phần ngây thơ, trẻ con, nhưng lại cho thấy cái chết đối với Việt không phải là điều khủng khiếp nhất với anh. Từ đó làm toát lên tình thần dũng cảm ở Việt. Sự gan dạ, dũng cảm ở hai chị em đã tạo nên hình ảnh đẹp đẽ, tiêu biểu cho những chiến sĩ giải phóng quân trong những năm kháng chiến chống Mĩ.

Nhìn sâu vào tâm hồn hai chị em Việt Chiến, chúng ta còn thấy được những vẻ đẹp khác, đó là vẻ đẹp của tình yêu thương gia đình. Chị Chiến mặc dù chỉ hơn Việt một tuổi nhưng lại rất đảm đang, tháo vát và hết sức yêu thương em. Chị luôn nhường nhịn Việt, chỉ có lần duy nhất không nhường đó là đêm ghi tên để lên đường tòng quân. 

Chị giành lấy phần khó khăn, vất vả về phía mình để em được sống trong an toàn. Còn Việt lại là cậu bé còn nhiều nét tính cách trẻ con nên hay tranh giành với chị Chiến, nhưng thực tế lại rất giàu tình cảm và lòng yêu thương chị. Bước chân bình bịch của chị khi khiêng bàn thờ sang nhà chú Năm càng làm rõ hơn tình yêu thương ấy. Nằm trong rừng bị thương, nhiều lần ngất đi tỉnh lại, Việt lại nhớ về những kí ức của hai chị em.

Bên cạnh những điểm tương đồng, hai hình tượng này còn mang những điểm khác biệt do tính cách, lứa tuổi và đặc biệt là do vị trí trong gia đình quy đình. Những điểm riêng biệt này đã giúp tác giả điển hình hóa nhân vật, giúp cho mỗi nhân vật có tính cách và số phận riêng.

Chị Chiến mang vẻ đẹp khỏe khoắn, bắp chân lúc nào cũng tròn lẳn, bước chân đi rất nhanh và mạnh, khiến Việt có thể cảm nhận rõ bước chân bình bịch khi cùng chị khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm. Đó là sức vóc đặc trưng của những người phụ nữ nông dân Nam Bộ, họ sinh ra để lo toan, thu vén cho gia đình. 

Là chị cả trong gia đình, chị Chiến sớm tỏ ra là người con gái đảm đang, tháo vát, chị lo toan công việc chu toàn. Trước khi lên đường ra mặt trận chị đã sắp xếp tươm tất mọi việc: chuyển bàn thờ má, cho mượn nhà làm trường học, trả lại ruộng cho xã,… Chị luôn suy nghĩ, lo toan chu đáo mọi việc.

Bên cạnh những điểm chung, tác giả đã đem đến cho người đọc hình tượng nhân vật Việt những nét vẽ mới lạ, độc đáo. Trước hết, Việt là một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ có phần trẻ con của một chàng trai tuổi mới lớn. Khi còn nhỏ cậu hiếu động, rất hay tranh giành với chị. Lớn lên, tham gia chiến đấu, khoác lên mình bộ quân phục đĩnh đạc nhưng trong tâm hồn cậu vẫn vương lại những nét tính cách trẻ con. 

Bị thương trong rừng, câu không sợ chết mà sợ con ma cụt đầu – nỗi ảm ảnh tuổi thơ, đã khiến Việt khóc một cách hồn nhiên. Không chỉ vậy, khi ra chiến trường cậu còn giấu nhẹm, không kể về chị cho những đồng đội của mình, vì sợ mất chị. Tất cả những biểu hiện hồn nhiên, vô tư đó đã đem đến một cái nhìn tươi sáng, rất đáng yêu về những anh giải phóng quân trẻ tuổi.

Cùng là sự gan dạ, dũng cảm nhưng ta nhận thấy sự gan dạ của Việt được hình thành trên cơ sở cá tính mạnh mẽ, bộc trực hơn là thiên về bản lĩnh, kinh nghiệm. Sự mạnh mẽ, dũng cảm ở Việt được thể hiện trong hành động đầy gan dạ, ôm cả bọc pháo lao vào xe tăng địch.

Đặc biệt với nhân vật này Nguyễn Thi đi sau vào khai thác những suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. Ông đã khéo léo hòa trộn, đan cài đôi khi là cả những suy nghĩ thoáng qua của Việt về tiếng chim, đôi khi lại là những cảm xúc vô cùng thiêng liêng về má, chú Năm, truyền thống gia đình và đó còn là lòng căm thù giặc sục sôi. 

Những biến đổi linh hoạt đó đã cho thấy ẩn đằng sau lòng dũng cảm, kiên cường còn là một anh giải phóng quân trẻ tuổi, hồn nhiên, ngây thơ lại vừa can trường, bản lĩnh, mang trong mình lí tưởng cao đẹp.

Xây dựng chân dung hai nhân vật Việt và Chiến, tác giả Nguyễn Thi đã làm nổi bật chân dung của những con người anh hùng trong thời đại mới. Trong họ trong chỉ đơn thuần là yêu căm chiến lạc, mà ở họ còn có những cung bậc cảm xúc khác nhau, khi mơ hồ, tinh tế, khi sắc nét, rõ ràng. Chính những yếu tố đó đã góp phần tạo nên sự thành công khi xây dựng chân dung nhân vật.

Bài văn phân tích tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" số 5

Viết về người lính là đề tài muôn thủa của nhiều nhà văn, một trong những tác phẩm đó là tác phẩm " Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi, tác phẩm đề cập đến người lính cách mạng, những năm tháng chiến đấu khó khăn trên chiến trường.

Những Đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi là một trong những tác phẩm đề cập đến người lính trong xã hội, nhân vật xuất hiện trong tác phẩm là những người lính cách mạng, nhân vật Việt, Chiến là nhân vật điển hình trong tác phẩm này, biểu hiện là những người anh hùng, sẵn sàng ra mặt trận đấu tranh để giành được quyền độc lập, tự do cho dân tộc.

Tác phẩm là dòng hồi tưởng của nhân vật Việt, trong khi tham gia đấu tranh đã bị thương ở nơi chiến trường. Qua cách xây dựng hình tượng của tác phẩm, nhà văn đã dùng những nét liên tưởng để diễn ra dòng trí nhớ và nhân vật. Nhớ những năm tháng tuổi thơ, nhớ năm tháng đấu tranh, nhớ năm tháng sống ở vùng quê…

Mỗi nhân vật đều mang một dòng liên tưởng đến nhân vật Việt, hình ảnh đó biểu hiện qua các thành viên trong gia đình: "ba, má, chị Chiến, chú Năm. Những con người này đều có điểm chung là nói đến những người có lý tưởng, họ luôn hết mình vì cách mạng, luôn chiến đấu vì dân tộc, quyền lợi.

Những người này có ước nguyện, họ mong muốn trả thù nước, giết giặc, họ cùng nhau đi tòng quân, để cùng nhau chiến đấu. Họ là những người yêu gia đình, chi tiết khiêng bàn thờ má gửi sang chú năm đã thể hiện tình nghĩa đối với cha mẹ của mình. Không quên nghĩa vụ với đất nước, không quên tình nghĩa với người cha mẹ của mình.

Cùng ý nghĩ khi khiêng bàn thờ sang gửi nhà chú Năm để chị em đi đánh giặc. Khi đi chiến đấu, Chiến là biểu hiện là một đội trưởng gương mẫu, luôn anh dũng chiến đấu, biểu hiện đó là Việt phá được xe tăng của địch trong một trận giáp lá cà. Dù bị thương nhưng Việt vẫn kiên cường chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu. Những nhân vật xuất hiện trong bài là những người chiến sĩ kiên cường.

Trong lúc bị thương Việt đã mơ tưởng đến những năm tháng đã qua, những năm tháng tuổi thơ, tranh dành đi bắt ếch, và những năm tháng đánh giặc, giành nhau đi tòng quân của hai chị em Việt Chiến. Cả hai nhân vật này đều có tấm lòng yêu thương cha mẹ, có tấm lòng căm thù quân địch sâu sắc. Với ý chí quyết tâm trả thù nước, đánh giặc để giành được độc lập tự do, đây là động lực to lớn đây là ý chí quyết tâm của những người chiến sĩ.

Họ là người lính có tinh thần gan góc, lập được nhiều chiến công to lớn trong các cuộc chiến tranh, ý chí đó được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm. Tuy nhiên mỗi người lại có những nét tính cách đặc biệt trong tác phẩm. Chiến là người phụ nữ biết chịu đựng, gánh vác mọi việc trong cuộc chiến. 

Việt là người anh dũng, tranh đi tòng quân. Là người chiến sĩ kiên cường. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập đến tinh thần chiến đấu của những người lính trong chiến đấu, đó là nổi bật cho tinh thần của người lính dũng cảm, vượt qua bao khó khăn trong cuộc sống, bất chấp khó khăn vẫn cố gắng phấn đấu vì sự nghiệp với dân tộc.

Nguyễn Thi đã thể hiện xuất sắc được tinh thần chiến đấu của những người lính cách mạng. qua đó nói lên tình cảm gia đình của những người lính, chi tiết đắt giá thể hiện tình cảm của những người đối với cha mẹ, là hình ảnh khênh bàn thờ của Việt Chiến khi đem gửi chú Năm.

Với những chi tiết đặc sắc, tác phẩm của ông đã được xếp vào là một trong những tác phẩm có giá trị to lớn trong việc tố cáo tội ác của kẻ thù và đề cap tình yêu của con người.

Bài văn phân tích tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm "Những đứa con trong gia đình" số 2

Nguyễn Thi (1928 - 1968) tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở xã Hải An, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, ông vào Nam sinh sống từ năm 1943, tham gia cách mạng năm 1945. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác tại tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội và sáng tác dưới bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Năm 1962, ông tình nguyện trở về Nam, công tác tại Cục chính trị Quân giải phóng miền Nam. Thực tế chiến đấu nóng bỏng của chiến trường là nguồn cảm hứng vô tận để ông sáng tác bút kí, truyện ngắn và tiểu thuyết với bút danh Nguyễn Thi.

Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì đánh Mĩ, xứng đáng với danh hiệu nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Tác phẩm của Nguyễn Thi bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu nóng bỏng, ác liệt của chiến tranh, nhưng vẫn đằm thắm chất trữ tình.

Nguyễn Thi viết được nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết… Sau khi hi sinh, các sáng tác của ông được sưu tập và in trong Truyện và kí Nguyễn Thi, xuất bản năm 1978; Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi toàn tập (4 quyển) xuất bản năm 1996. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Những đứa con trong gia đình là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi.

Truyện được viết trong những ngày chiến đấu gian khổ, ác liệt nhất của chiến trường miền Nam. Qua truyện, tác giả thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ và khẳng định: lòng yêu nước, căm thù giặc, tình cảm gia đình thiêng liêng là sức mạnh tinh thần to lớn của họ trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.

Truyện kể về hai chị em trong một gia đình có thù sâu với giặc Mĩ và bè lũ tay sai bán nước. Chiến và Việt đã gửi lại nhà cửa, ruộng vườn cho người chú để cùng tham gia bộ đội, trực tiếp cầm súng trả thù nhà, đền nợ nước. Đoạn trích nằm ở phần giữa của truyện, kể về tình huống đặc biệt của nhân vật Việt. Trong một trận đánh ác liệt, anh bị thương nặng và lạc đơn vị. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh. 

Nhưng cũng chính vì thế mà kí ức sống dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Việt nhớ má, nhớ đồng đội, nhớ những giây phút không thể nào quên trước khi nhập ngũ của hai chị em. Những hình ảnh về con người và cảnh vật quê hương hiện lên rõ ràng trong tâm tưởng của Việt.

Đoạn trích có thể chia làm hai cảnh, cảnh một: Tác giả kể về tình huống và tâm trạng của Việt lúc bị thương. Cảnh hai: Việt nhớ lại chuyện hai chị em tranh nhau xin nhập ngũ và sau đó cùng thu xếp việc nhà để lên đường đi chiến đấu. Ở cảnh một, lần thứ tư tỉnh lại, trong kí ức Việt hiện lên những kỉ niệm vui buồn về người mẹ thân yêu luôn đùm bọc, che chở cho các con: Má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn… Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?

Trong những đoạn khác, Nguyễn Thi chọn những chi tiết điển hình hàm chứa nhiều ý nghĩa để khắc họa hình tượng người phụ nữ một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, hoặc hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà hai bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân. Mỗi lần bọn lính bắn dọa, mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển… 

Đó là hình ảnh của người phụ nữ miền Nam gan góc, kiên cường, yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc và rất mực thương chồng thương con. Cuộc sống lam lũ vất vả, chồng chất đau thương nhưng họ vẫn cắn răng chịu đựng, vượt qua để nuôi con, đánh giặc.

Hình ảnh chú Năm hiện lên với những phẩm chất tiêu biểu của dòng tộc, gia đình. Giữa lúc anh cán bộ huyện đang phân vân không biết giải quyết thế nào trước tình cảnh hai chị em Chiến, Việt giành nhau ghi tên nhập ngũ thì chú Năm đứng ra bảo lãnh cho cả hai: Từ dưới sân, chủ Năm bước lên. Chú nheo mắt nhìn chị em Việt, rồi nói với anh cán bộ:

– Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong.

Chú Năm cẩn thận ghi chép đầy đủ tội ác dã man của giặc đối với dòng họ, gia đình mình và chiến công của các thành viên vào một cuốn sổ truyền thống. Khi Chiến và Việt chuẩn bị lên đường, chú Năm bàn giao cuốn sổ cho hai chị em:

Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước - Chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi mắt. Đây rồi tao giao cuốn sổ gia đình cho chị em bây. Gọi là giao vậy chớ đưa cho bây rồi bây lội đùng đùng qua sông là hư hết. Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày.

Cuốn sổ tuy nhỏ nhưng ý nghĩa thì đặc biệt lớn bởi nó vừa biểu dương công trạng của từng thành viên, vừa là một tấm bia căm thù, vừa thể hiện quyết tâm đánh giặc của một đại gia đình. Trước kia, cuốn sổ do thế hệ cha chú giữ gìn và ghi chép, nay con cháu đã trưởng thành, chú Năm bàn giao lại cho thế hệ trẻ viết tiếp. 

Vì vậy, cuốn sổ cũng chính là câu chuyện về cha con, chú cháu cùng đánh giặc để giải phóng quê hương. Điều đó thể hiện một cách giản dị mà sâu sắc quy luật phổ biến của lịch sử Việt Nam, quy luật của sức sống Việt Nam: Đánh đuổi giặc ngoại xâm đã trở thành sự nghiệp chung của nhiều thế hệ.

Là một nông dân chất phác và giàu tình cảm, mỗi khi làm xong một việc, tâm hồn chú Năm lại lâng lâng bay bổng, dạt dào cảm xúc. Chú gửi gắm tình cảm tha thiết của mình vào tiếng hò, tiếng hát quen thuộc của quê hương. Lúc hai chị em Chiến, Việt chuẩn bị ra trận, chú hoàn toàn tin rằng các cháu đã đủ sức gánh vác việc lớn của xã hội. Trong lòng vui vẻ, chú cất lên tiếng hò thay cho lời nhắn nhủ, lời thề:

Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.

Nhân vật Chiến tuy không được tác giả miêu tả nhiều như nhân vật Việt nhưng vẫn hiện lên sinh động trong tâm trí người đọc. Chiến là hình ảnh của một cô gái Nam Bộ đảm đang, vị tha, nhân hậu. Những gì quen thuộc, tiêu biểu trong phẩm chất đáng quý của người mẹ hầu như đã để lại ấn tượng sâu đậm trong cô con gái có cái tên rất con trai là Chiến. 

Bởi thế nên mỗi khi nghe chị Chiến nói, Việt lại hình dung ra má và thấy chị sao mà giống má đến thế! Điều đó làm cho Việt bùi ngùi nhớ má và càng thương chị hơn. Hai chị em tuy có hai tính cách khác nhau nhưng giống nhau ở chỗ đều ngoan ngoãn, hiếu thảo, biết gìn giữ và phát huy truyền thống cách mạng của gia đình, dòng họ, láng xóm, quê hương.

Trong tác phẩm, Việt là nhân vật được nói đến nhiều nhất. Việt vừa có những nét riêng dễ mến của một cậu con trai mới lớn như hồn nhiên, hiếu động; vừa có tính cách của một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường. Ở cảnh một, nhà văn đã để cho nhân vật Việt xuất hiện trong tình huống hoàn toàn đơn độc giữa trận địa vắng lặng đến ghê người sau cuộc giao tranh và giữa sự rình rập của hiểm nguy, của cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. 

Nguyễn Thi đã viết thật hay, thật cảm động về cái cảm giác một mình bật lên một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất của chàng tân binh trơ trọi một mình, lại bị thương nặng, hai mắt không còn nhìn thấy gì, sức đã cạn vì đói khát. Ngón tay Việt đau không còn kéo nổi cò bấm súng. Việt lết đi được một đoạn cũng là cả một kì công. Anh ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Ở trạng thái như thế, người ta có thể nghĩ gì? 

Chắc chắn là sẽ nhớ lại những kỉ niệm vui buồn thân thiết nhất đã thực sự làm nên đời sống tinh thần của mình. Vì thế, với việc để nhân vật Việt nhớ đến những đồng đội, người thân, tác giả đã khẳng định rằng gia đình là cội nguồn sức mạnh của con người và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng:

…Khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được. 

Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc…

Có một chi tiết khá thú vị là đánh giặc Việt không sợ nhưng vẫn rất sợ ma. Tuy mới nhập ngũ nhưng Việt tỏ ra là một chiến sĩ thông minh, phân biệt rõ tiếng súng của ta, tiếng súng của giặc; phán đoán được tình huống của trận đánh: Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai… Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc. 

Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm… chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ.

Tuy đang lâm vào tình huống hiểm nghèo nhưng Việt vẫn hướng về đồng đội, tin tưởng vào chiến thắng: Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên… Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…

Đối mặt với cái chết, Việt cố gắng tìm về với cuộc sống: Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lỗ nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…

Đời người lính chiến, giữa hi sinh tính mạng và chịu đựng khó khăn gian khổ hoặc đau đớn về thể xác thì hi sinh tính mạng dễ chấp nhận hơn nhiều. Đoạn văn kể về nghị lực phi thường của Việt là khúc ca ca ngợi tinh thần dũng cảm của người chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi.

So sánh nhân vật Chiến và Việt, ta thấy điểm giống nhau của hai chị em là đều có một tình yêu quê hương, đất nước và thái độ căm thù giặc sâu sắc. Tuy là những đứa trẻ mới lớn nhưng Chiến và Việt đã khắc sâu trong tâm khảm mối thù không đội trời chung với những kẻ đã giết hại ba má và đồng bào mình. Từ đó, hai chị em xác định mục đích của cuộc đời mình là phải trả thù bằng được cho ba má, cho quê hương. 

Chính vì mối thù này mà cả hai chị em đều nung nấu quyết tâm đánh giặc. Mối thù ấy dường như thôi thúc họ lớn nhanh hơn. Khi nghe Chiến kể rằng chú Năm nói lần này hai chị em ra đi chiến đấu, thù ba má chưa trả được mà trở về thì chú chặt đầu, Việt nói tỉnh queo: Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị. Còn Chiến thì cũng khẳng khái nói: Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!

Tuy nhiên, sự độc đáo và hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Thi chính là ở chỗ ông đã có cách miêu tả khác nhau nên Chiến và Việt hiện ra với cá tính riêng không thể lẫn. Hơn em một tuổi nhưng Chiến luôn tỏ ra là một người chị khôn lớn, đảm đang, việc gì cũng nhận lãnh về mình. Ba má đã khuất, Chiến sớm ý thức được vai trò của người chủ gia đình. Chiến đã phải lớn vượt lên so với lửa tuổi để thay ba má lo liệu việc nhà, bảo ban các em.

Việt là em nên ỷ lại mọi việc cho chị, thường bắt chị phải chiều theo ý mình. Chiến nhường nhịn em trong mọi việc nhưng có một việc Chiến kiên quyết không nhường, ấy là ghi tên tòng quân. Nhưng tính cách của người chị thương em hết lòng cũng thể hiện ở chính điều đó. Thực ra, đây là một đức hi sinh lớn, một sự nhường nhịn lớn. Chiến muốn giành về mình phần nguy hiểm để em được bình yên. 

Chiến biết là Việt chưa lo toan nổi việc nhà, nhưng nhà chỉ có hai chị em nên Chiến vẫn đem việc nhà ra bàn với em một cách dân chủ. Tuy vậy, Chiến đã dự định từ trước, mọi việc đã được sắp xếp đâu ra đấy, khiến cho Việt cảm thấy chị mình chín chắn, già dặn giống in như má. Còn Việt, trong khi nghe chị nói thì lại để mắt đến mấy con đom đóm và trong lúc chị Chiến vẫn nói thì Việt đã lăn ra ngủ từ lúc nào.

Câu chuyện trao đổi giữa hai chị em cũng bộc lộ phẩm chất đáng quý của tuổi trẻ miền Nam thời đánh Mĩ: đã ra đi là quyết tâm chiến đấu và chiến thắng. Điều đáng quý của hai chị em là rất thương yêu, lo lắng cho nhau và cả hai đều nhớ đến má: Hình như má cũng về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?

Đêm nay, dễ gì má vắng mặt, má cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tính toán việc nhà ra làm sao chớ? Chị em Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống cách mạng, cho nên dù cha mẹ đã khuất nhưng lời dạy của cha mẹ vẫn thấm sâu vào tâm trí, nhắc nhở các con trong từng suy nghĩ, từng lời nói và hành động.

Trước lúc lên đường Việt đi câu ít con cá về làm bữa cơm cúng má trước khi dời bàn thờ sang nhà chú… Cúng mẹ và cơm nước xong, mấy chị em, chú cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. Người đọc không thể quên đoạn văn rất cảm động tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm: Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. 

Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lân đầu tiên Việt thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác.

Chỗ hay nhất của đoạn văn trên có lẽ là cái không khí thiêng liêng làm thay đổi cả cảnh vật lẫn con người. Con đường quen thuộc bỗng có thêm mùi hoa cam thoảng lại từ chân vườn. Còn đối với Việt, cái không khí thiêng liêng ấy khiến anh trở thành người lớn. Lần đầu tiên, Việt hiểu rõ lòng mình, bỗng thương chị lạ và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật cô đọng, dồn nén, chất chứa rất nhiều ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa có yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, vừa chan chứa yêu thương… 

Nếu để ý, người đọc sẽ thấy tác giả còn tô đậm sức vóc của hai chị em. Chiến thì hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng… dang cả thân người to và chắc nịch của mình… nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt cũng ghé vào để khiêng. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ sức cầm súng đánh giặc như thế hệ của cha mẹ mình.

Câu chuyện trong đoạn trích được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật chính, dựa theo dòng hồi tưởng đan xen với thực tại, vì thế mà đậm đà chất trữ tình và vô cùng sống động. Phẩm chất, tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét. Trong kí ức nhân vật hiện lên rõ ràng từng kỉ niệm của quá khứ chưa xa. Đó là những ngày Việt được sống trong tình yêu thương của đồng đội, của những người thân yêu trong gia đình. 

Quá khứ này tạo điều kiện cho nhà văn có thể đi sâu vào thế giới nội tâm phong phú của nhân vật. Kết cấu của truyện không phụ thuộc vào trật tự thời gian. Từ những chi tiết ngẫu nhiên của hiện thực chiến trường, tác giả đã gợi ra những dòng hồi tưởng về quá khứ từ chuyện này sang chuyện khác hết sức tự nhiên. Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Thi, nhân vật nào cũng sống động và có cá tính rõ nét. Nhờ ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ mà tác phẩm chân thực và sinh động.

Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình vừa giàu tính hiện thực vừa giàu tính trữ tình. Những suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật Việt được tác già thể hiện bằng giọng kể tự nhiên, mộc mạc rất đúng với tâm trạng của một chàng trai mới lớn, xa gia đình đi chiến đấu chưa được bao lâu. Điều đó phần nào phản ánh phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ Giải phóng quân trong cảnh ngộ nguy hiểm và chết chóc của chiến trường. 

Sự đau đớn do các vết thương trên thân thể gây ra không làm cho Việt khủng hoảng tinh thần mà ngược lại, anh vẫn bình tĩnh sống với kí ức tuổi thơ gắn liền bao kỉ niệm vui buồn và tìm thấy ở đó nguồn sức mạnh lạ thường. Nhà văn Nguyễn Thi miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ không phải qua chiến công mà là qua nghị lực phi thường và đời sống tình cảm phong phú của họ.

Chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng thời đánh Mĩ còn được tác giả khai thác ở đời sống tinh thần giản dị mà cao đẹp của thế hệ trẻ miền Nam. Hai chị em Chiến, Việt là những đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo và trong chiến đấu họ lại là những chiến sĩ vô cùng kiên cường, dũng cảm.

Thông qua truyện, Nguyễn Thi cũng kín đáo đề cập tới một vấn đề có tính chất xã hội: Gia đình là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình hình thành nhân cách. Những người con được giáo dục tốt trong gia đình sẽ trở thành những thành viên tích cực và hữu ích cho xã hội.

Ở từng nhân vật đều có sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước, yêu cách mạng, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc, thà hi sinh tất cả quyết giành độc lập tự do. Điều đó đã tạo nên sức mạnh to lớn của con dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp chống Mĩ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Bài văn phân tích tác phẩm

Nguồn: https://topchuan.com/top-7-bai-van-phan-tich-tac-pham-nhung-dua-con-trong-gia-dinh-cua-nguyen-thi/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét