Được tạo bởi Blogger.

Thứ Năm, 27 tháng 2, 2020

Top 5 Bài văn phân tích đoạn trích “Thề nguyền” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

0 comments
Nói đến văn học Việt Nam, không thể bỏ qua Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm được coi là công trình hoàn mỹ, là kiệt tác "băng không gian mà đi, vượt thời gian mà sống". Nội dung tác phẩm kể về cuộc đời vận mệnh của một người con gái tên Thúy Kiều qua đó phản ánh số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những tàn bạo bất công. Trong phần đầu của truyện Gặp gỡ và đính ước (câu 1 đến câu 242) đã giới thiệu về chị em Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều và gặp Kim Trọng, nàng Kiều phải lòng Kim Trọng và cùng chàng thề non hẹn biển trong đêm trăng qua đoạn trích "Thề nguyền" trong chương trình ngữ văn lớp 10. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích đoạn trích mà TopChuan.com đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích đoạn trích "Thề nguyền" số 9

"Truyện Kiều"không chỉ là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam mà còn là thi phẩm được biết đến trên toàn thế giới. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, những nhân vật như Thúy Kiều, Kim Trọng, Hoạn Thư,... trở nên vô cùng chân thật, sống động và làm thồn thức trái tim của biết bao thế hệ độc giả. Cả tác phẩm dài 3254 câu, mỗi phân đoạn lại có một cái hay riêng và đoạn trích "Thề nguyền" được đánh giá là đoạn thể hiện rõ nét nhất mối tình Kim – Kiều tuyệt đẹp.

Đây cũng là đoạn trích cho thấy tài năng đỉnh cao của Nguyễn Du trong việc tả cảnh, tả tình. Đoạn trích "Thề nguyền" là một cột mốc rất quan trọng trong tác phẩm. Sau khi được Đạm Tiên báo mộng, Kiều luôn cảm thấy bất an, lo lắng khi nghĩ đến tương lai, đến tình yêu của mình. Nàng băn khoăn tự hỏi:

"Người đâu gặp gỡ làm chi

Trăm năm biết có duyên gì hay không?"

Nhưng, cuộc tái ngộ Kim Trọng đã thổi vào lòng nàng sức sống và niềm tin mới. Nó thôi thúc nàng chủ động nắm bắt tình yêu, số phận của bản thân. Nghe tin gia đình tối đó không về, Kiều quyết định sang nhà Kim Trọng. Bậc tài tử giai nhân tỏ lòng cùng nhau và sau đó cùng nhau hẹn ước. Mở đầu đoạn trích là cảnh Thúy Kiều "rủ rèm the", băng lối sang nhà chàng Kim tình tự:

"Sông Tương một dải nông sờ

Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia

Một tường tuyết trở sương che

Tin xuân đâu dễ đi về cho năng

Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình."

Những bước chân nhanh nhẹn, đầy can đảm và chủ động ấy như đang từng bước đạp đổ xiềng xích của lễ giáo phong kiến trói buộc người phụ nữ bấy lâu nay. Quả thật trong xã hội phong kiến xưa, hủ tục trói buộc con người, nó dường như tạo nên một bức tường ngăn cách tự do, ngăn cách tình yêu đôi lứa, nhưng Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, đã tự mình ước hẹn, thề nguyền mà không cần sự cho phép của cha mẹ. Điều đó cho thấy trong Kiều luôn hiện hữu khao khát về một tình yêu tự do, nàng đang tự tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình.

"Nhặt thưa sương giọi đầu cành

Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu!

Sinh vừa tựa án thiu thiu

Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê"

Từ thực tại bước vào ảo mộng, từ nơi cỏ cây vườn tược, nàng bước đi để lại sau lưng vườn khuya để đến với người yêu cũng là lúc bước vào cõi mộng tình yêu. Cả hai tầng ánh sáng cũng soi rọi bước chân nàng, ánh đèn hòa cùng ánh trăng, dường như ánh trăng tạo nên chất thơ dẫn dắt tình cảm của Kiều đến đúng nơi cần đến. Còn đối với Kim Trọng sự xuất hiện của Kiều như một giấc mộng, với trạng thái chập chờn giấc ngủ, đường ranh giới mơ thực mỏng manh, không còn được phân định rõ ràng. Nhưng khi nhận ra , chàng lại thấy hạnh phúc, bâng khuâng trước sự xuất hiện đột ngột của tình nhân, xáo trộn không gian nơi căn nhà. Nhìn Thúy Kiều đẹp mờ ảo:

"Tiếng sen sẽ động giấc hòe

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần"

Khung cảnh Thúy Kiều và Kim trọng gặp nhau cũng được Nguyễn Du mô tả hết sức thơ mộng, lãng mạn với hình ảnh "trăng xế", "hoa lê".Bóng Kiều hiện ra thật đẹp, vẫn trạng thái mộng thực đan xen lẫn lộn. Bóng người và bóng trăng như hòa làm một. Vừa gần mà lại xa, tưởng chừng trong tầm tay mà lại khó nắm băt. Cả hình ảnh và âm thanh đều rất mơ hồ bởi những bước chân của nàng Kiều quá đỗi khẽ khàng, chỉ như một cơn gió thoảng qua. Chàng Kim đang thiu thiu ngủ, nửa tỉnh nửa mê nghe tiếng động "tiếng sen khẽ động giấc hòe". Nhà thơ Nguyễn Du sử dụng hình ảnh "tiếng sen" để miêu tả bước chân của Thúy Kiều, gợi cho người đọc liên tưởng đến những bước chân hết sức nhẹ nhàng, uyển chuyển đến mức chỉ "khẽ động giấc hòe". Trong khung cảnh thi vị ấy, lòng người cũng đầy bâng khuâng:

"Bâng khuâng đỉnh giáp non thần,

Còn nhờ giấc mộng đêm xuân mơ"

Giấc mộng đêm xuân hay còn là giấc mơ của tình yêu có thật. Để nói về sự xúc động bâng khuâng của chàng Kim khi nhìn thấy Thúy Kiều, nhà thơ đã sử dụng điển cố của Trung Quốc, đó là điển tích "đỉnh giáp non thần", kể về việc vua nước Sở ngủ nằm mơ thấy nữ thần núi Vu Giáp khiến chàng Kim như tỉnh như mê, còn tưởng "giấc mộng đêm xuân mơ màng". Trước những ngỡ ngàng, hạnh phúc của Kim Trọng, Kiều giãi bày lí do nàng chủ động sang nhà chàng:

"Nàng rằng: khoảng vắng đêm trường

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Biết đây rồi nữa chẳng là chiêm bao"

"Khoảng vắng đêm trường" là không gian thời gian tâm lí bởi vì Kim Trọng trọ học ở ngay gần nhà Kiều mà Kiều sang gặp Kim Trọng đúng sau ngàu thanh minh vậy mà cảm giác như đã xa nhau một khoảng thời gian lâu lắm rồi. Kiều thể hiện nỗi nhớ niềm thương qua chứ "hoa", tình yêu sâu sắc của nàng dành cho Kim Trọng. Nhưng Kiều luôn chiu sự ảm ảnh về tình yêu và số phận sau cuộc gặp gỡ hữu duyên ở mộ Đạm Tiên, nàng có dự cảm về một tương lai bất hạnh chia lìa. Nàng Kiều là một người con gái nhạy cảm lại đang ở mối tình trong sáng, quấn quýt thì nỗi lo lắng về sự xa cách luôn luôn thường trực.Qua đó thể hiện quan niệm của nàng, phá vỡ những hủ tục lạc hậu trong xã hội phong kiến, tim sự chủ động trong tình yêu và trân trọng nó.

Không gian đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng với ánh sáng, màu sắc, hương thơm,… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Dưới ánh trăng sáng, trong không gian đầy thi vị, Kim – Kiều đã bắt đầu nghi thức thề nguyền:

"Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song

Tóc tơ căn vặn tấc lòng

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương."

Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề nguyền này là tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi nhận của thiên nhiên tạo vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng bảo vệ tình yêu khỏi những tì vết, bụi bặm đời thực; nó khắc hình ảnh dêm thề nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn, một minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng.

Ta có thể thấy, mục đích của cuộc gặp gỡ bất ngờ này không phải đơn thuần là cho thỏa nỗi nhớ nhung của đôi lứa mà còn nhằm mục đích thiêng liêng hơn, đó là lời thề nguyền, minh chứng tình yêu của chàng và nàng. Đây là một cuộc thề nguyền vụng trộm nhưng lại được Nguyễn Du miêu tả một cách trang trọng, thiêng liêng trong không gian ấm áp. Trong hoàn cảnh ấy, lời thề trở thành một sợi dây vô hình gắn kết hai trái tim.

Qua đoạn trích "Thề nguyền", Nguyễn Du đã xây dựng một khung cảnh tuyệt đẹp đó là đêm trăng tình yêu, vầng trăng ước hẹn để từ đó thể hiện khát khao về tình yêu tự do của Thúy Kiều, người con gái xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc mệnh. Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là tình yêu trong sáng, thủy chung, vượt lên trên lễ giáo phong kiến. Chính những điều này đã làm tăng thêm tính hấp dẫn và giá trị nhân văn cho đoạn trích "Thề nguyền" nói riêng và tác phẩm "Truyện Kiều" nói chung.

Bài văn phân tích đoạn trích

Bài văn phân tích đoạn trích "Thề nguyền" số 5

Truyện Kiều là tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Không những là một kiệt tác bất hủ, truyện Kiều còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và đời sống của con người Việt nam nhiều thời đại. Đoạn trích Thề nguyền trích từ câu 431 đến câu 452 trong Truyện Kiều. Đoạn trích kể về việc Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng và làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc:

Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình...

Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Thúy Kiều táo bạo băng lối vườn khuya tìm đến với Kim Trọng: Cửa ngoài vội rủ rèm the/Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Tác giả dùng hai lần chữ "vội", một lần chữ "xăm xăm", một lần chữ "băng" để diễn tả tâm trạng, tình cảm của Kiều. Mặt khác thể hiện sự khẩn trương, vội vã của nàng trong hành động táo bạo, đột xuất, bất ngờ. Kiều như tranh đua với thời gian và định mệnh đang ám ảnh mà cũng vì tình yêu với Kim Trọng mà Kiều vội vã đến vơi chàng Kim. 

Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng phải đóng vai trò chủ động. Người con gái không bao giờ là người chủ động trong tình yêu. Thế nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử, Nguyễn Du đã để cho Kiều hành động như thế. Đây là một nét mới trong cách nhìn tình yêu của Nguyễn Du. Nhưng ỏ đây, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Kiều – người con gái. Nhà thơ có cái nhìn vượt trước thời đại, hướng đến sự bình đẳng trong tình yêu lứa đôi và trong cuộc sống xã hội của mỗi con người.

Nhặt thưa gương giọi đầu cành,

Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.

Không gian đêm thần tiên, hư ảo được tả bằng các hình ảnh ánh trăng nhặt thưa, ngọn đèn hiu hắt, tiếng bước chân nhẹ nhàng tạo ấn tượng cho Kim Trọng như đang sống trong mơ. Không gian như cần thêm ánh sáng, cần thêm hương thơm và sự ấm áp. Đó là không gian đẹp, nhưng có cảm giác hư ảo, không có thực, con người rất cô đơn giữa trời đất bao la:

Sinh vừa tựa án thiu thiu,

Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.

Tiếng sen sẽ động giấc hè,

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.

Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

Kiều đến và tỏ bày về hành động của mình:

Nàng rằng: "Khoảng vắng đêm trường,

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.

Bây giờ rõ mặt đôi ta,

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?"

Biết là trái với luân thường đạo lí, nhưng ngọn lửa tình yêu cháy bỏng khiến nàng mạnh bước vượt qua. Sợ Kim Trọng không vừa ý nên tỏ lòng cho rõ nguồn cơn. Cuộc thề nguyền tuy vội vàng nhưng cũng đủ cả các hình thức nghi lễ. Hai mái đầu xanh cùng ngước lên trời cao, có vầng trăng chứng giám lời thề, tình yêu tự nguỵen và chung thuỷ của họ:

Đài sen nối sáp lò đào thêm hương.

Tiên thề cùng thảo một chương,

Tóc mây một món dao vàng chia đôi.

Vừng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Hình ảnh: "Đinh ninh ….song song" và lời thề: "Trăm năm…..xương" thật cảm động và thiêng liêng, lãng mạn và đầy chất lí tưởng.  Đoạn trích cho thấy tình yêu của con người là rất cao đẹp và thiêng liêng. Lời thề của họ được vầng trăng chứng giám. Đoạn Trao duyên là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm và cách nhìn tình yêu của Thuý Kiều. Ngược lại đoạn trích này cũng góp phần hiểu đúng đoạn Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp đối với Kiều và Kiều sẽ nhớ lại những chi tiết trong đêm thề nguyền thiêng liêng này. Bởi vậy khi phải phụ lời thề để báo hiếu Kiều luôn nhớ chàng Kim với buổi thề nguyền với tâm trạng đau xót, tiếc thương. Hành động trao duyên tả nghĩa chàng Kim làm dịu đi phần nào nỗi đau của Kiều.

Thề nguyền là đoạn thơ chứng tỏ quan niệm mới mẻ táo bạo của Nguyễn Du về tình yêu. Mặt khác chứng minh tình cảm say đắm, mãnh liệt, chủ dộng và rất đỗi trong sáng, thiêng liêng của Kiều – Kim. Đoạn thơ đã trở thành bản tình ca bất diệt về tình yêu đầy lãng man, lí tưởng táo bạo. Đây là cái nhìn mới mẻ, giàu tính nhân văn của Nguyễn Du về tình yêu.

Bài văn phân tích đoạn trích

Bài văn phân tích đoạn trích "Thề nguyền" số 6

Trong cuộc đời này, liệu có mấy người dám khẳng định: ta sống không cần tình? Đại thì hào Nga M.Gocki từng quả quyết rằng: Tình yêu - đó là thơ ca cuộc đời. Cuộc sống thiếu tình yêu không phải là sống mà chỉ là sự tồn tại! Và như là định mệnh, tình yêu tìm đến văn chương nghệ thuật để được bất tử hoá. Những áng văn thơ về đề tài này, từ xưa đến nay vẫn giữ vị trí cao nhất trong lòng người đọc. Ai có thể thờ ơ với tình yêu trong sáng của Romeo và Julỉét trong đêm trăng thề nguyền? Cũng như vậy, ai có thể không nhận ra một phần tâm hồn mình trong tình yêu của Thuý Kiều và Kim Trọng? Thề nguyền là một nét biểu hiện đẹp trong tình yêu của người quốc sắc, kẻ thiên tài này.

Thề nguyền là một cung bậc tình cảm trong tình yêu. Lời thề là sự khẳng định cho niềm tin, lòng thuỷ chung son sắt của hai con người, nó cho tình yêu một chỗ dựa vững chắc, bền chặt. Chẳng thế mà cả Rômêô và Juliét, Thuý Kiều và Kim Trọng đều xem nó là minh chứng cho tình yêu của minh trong văn học trung đại Việt Nam, việc xuất hiện một tình yêu kiểu Kim – Kiều thật hiếm thấy. Tình yêu ấy đã phá rào định kiến, gỡ bỏ mọi trói buộc để đến với nhau tự do, tự nguyện. Một tình yêu vượt trên thời đại. Để bảo vệ, vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của mình Thuý Kiều đã:

Cửa ngoài vội rủ rèm che 

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

Vì hành động xăm xăm băng lối vườn khuya ấy mà Kiều đã nhận lấy không biết bao nhiêu tiếng chê – khen. Các cụ ta xưa xem đó là hành động trái lại với đạo đức, luân lí, cương thường. Trong khi nàng phải gần gũi mình trong cảnh thâm nghiêm kín cổng cao tường hay êm đềm trướng rủ màn che – tường đông ong bướm đi về mặc ai, thì hành động một mình giữa đêm tối tìm đến nhà người yêu của Kiều thật khó chấp nhận, nó không phải là hành động của bậc tiểu thư đài các thâm khuê.

Nhưng ta hãy nhìn nó với ánh mắt và tâm hồn của kẻ đang yêu, những gì các cụ ta cho là vô lý, là sai trái, là không thể chấp nhận kia bỗng trở nên hợp lý, đúng đắn hơn bao giờ hết. Kiều yêu bằng tình cảm đầu đời mãnh liệt, trong sáng nhất của người con gái. Tình yêu đẹp đẽ đã cho nàng sức mạnh vượt qua bóng đêm của khu vườn, bóng đêm của định kiến đế đến với chàng Kim. Điều đáng trân trọng, ca ngợi nữa là Kiều đã không để sự mãnh liệt trong tình yêu dẫn nàng đi quá xa, quá giới hạn cho phép. Và cũng chính Kiều đã biện minh cho hành động của mình.

Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường 

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa 

Bây giờ đỏ mặt đôi ta 

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?

Vì hoa - vì chàng Kim - vì con người văn chương nết đất, thông minh tính trời, vào trong phong nhã, ra người hào hoa ấy đã khiến Kiều phải trổ đường tìm hoa giữa khoảng vầng đêm trường. Có trách là trách ai kia chứ sao lại trách nàng? Yêu tha thiết là thế nhưng Kiều vẫn rất tĩnh táo. Cuộc đời nàng bắt đầu từ những khúc. Bạc mệnh đến lời báo mộng của Đạm Tiên rằng nàng có tên trong sổ Đoạn trường đã khiến cho người con gái trong sáng ấy luôn thường trực nỗi ưu tư, lo lắng. Giữa lúc tình yêu ở độ nồng thắm nhất mà nàng vẫn lo rằng: Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? Mọi thứ sẽ tan biến như giấc chiêm bao không thể nếu giữ lại bởi hạnh phúc nàng có mong manh. Điều đó dường như không còn là nỗi lo lắng đơn thuần nữa. Nó là điềm báo chăng? Cũng giống như lời tâm sự của Juliét dưới đêm trăng đã khiến chàng Romeo hạnh phúc đến ngây ngất, hành động của Kiều khiến Kim Trọng ngạc nhiên và mừng rỡ không kém:

Sinh vừa tựa án thiu thiu 

Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê 

Tiếng sen, khẽ động giấc hoè 

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần 

Bâng khuâng đỉnh giáp non thần 

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

Bước chân người đẹp đã đánh thức giấc mộng cửa chàng Kim. Nàng như hoa lê ngậm trăng với vẻ thanh khiết, sáng láng tuyệt vời khiến chàng Kim ngỡ thần nữ núi Vu Giáp. Chàng không khỏi ngạc nhiên: Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.     Lại là giấc mộng. Dường như khi yêu, người ta nhìn thế giới bằng con mắt mơ mộng. Kiều xuất hiện trước mặt chàng đầy bất ngờ, với vẻ xỉnh đẹp yêu Kiều là thế khiến chàng ngỡ mình đang đắm chìm trong giấc mộng đêm xuân mơ màng cũng là điều dễ hiểu.

Hết ngạc nhiên, chàng vui mừng hạnh phúc:

Vội mừng làm lễ rước vào 

Đài sen nối sáp lò đào thêm hương 

Tiên thề cùng thảo một chương 

Tóc Mây một món dao vàng chia đôi 

Vừng trăng vằng vặc giữa trời 

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu sắc, hương thơm; với cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều trao chàng kim món tóc mây biểu hiện sự hẹn ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau được vây gọn trong thiên nhiên đẹp đẽ, êm đềm với sự minh chứng của vừng trăng vàng vặng giữa trời.

 

Trăng là kẻ cố tri, thường xuyên xuất hiện và đi về để chứng kiến những bước ngoặt trong cuộc đời nàng Kiều, vầng trăng ấy chất chứa đầy tâm trạng bởi dưới trăng là con người của nỗi niềm tâm sự khôn nguôi. Nó có lúc là thứ ánh sáng nhợt nhạt, đe dọa trong đêm Kiều trốn theo Sở Khanh:

Đêm thâu khắc lâu canh tàn 

Gió cây trút lá trăng ngân ngậm sương.

Hoặc có thể là vầng trăng sẻ nửa khi Kiều chia tay chàng Thúc:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi 

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.

Hay là bóng trăng tà đầy hoảng hốt khi Kiều chốn khỏi nhà Hoạn Thư:

Cất mình qua ngọn tường hoa 

Lần đường theo bóng trăng tà về tây…

Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề nguyền này là tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi nhận của thiên nhiên tạo vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng bảo vệ tình yêu khỏi những tì vết, bụi bặm đời thực; nó khắc hình ảnh dêm thề nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn, một minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng.

Tình yêu đẹp được thi vị hoá âu cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng bản thân tác giả Truyện Kiều và các nhân vật của ông không bao giờ quá ảo tưởng về nó. Điều này thể hiện ở chữ vội. Chữ vội này gắn chặt với mọi nhân vật trong Truyện Kiều. Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh vội trong việc ép người hầu khác; Hoàn thư vội trong việc bắt và hành hạ Kiều, Từ Hải vội khi đầu hàng Hồ Tôn Hiến, Kim Trọng vội khi tìm lại Thuý Kiều và Thuý Kiều luôn vội trong mọi hoàn cảnh, mọi sự việc. Ngay trong tình yêu, sự vội vàng ấy cũng luôn ám ảnh. 

Hai con người son toả ấy có cả cuộc đời để yêu thương nhau sao họ phải vội? Đương nhiên cái sự vội ấy không giống với cái vội vàng của Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thuỵ: vội yêu, vội chán và cũng vội bỏ. Đó phải chăng là cái vội của niềm khát khao hạnh phúc, khát khao tình yêu đích thực? Cái vội ấy là thứ vũ khí chống lại mọi sự phá hoại hay là dấu hiệu của sự mong manh trong hạnh phúc hai người? Sự vội vàng ấy phù hợp với lo lắng của Kiều: Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao. Kim Trọng vội rước Kiều vào, vội thêm hương, thêm sáp, hai người vội thảo tiên thế, vội trao tóc mây, vội thề nguyền. Dường như thời gian không cho phép họ được chậm trễ; hiện thức không cho phép họ do dự.

Cuộc đời Kiều là một chuỗi dài những biến cố, những sự kiện, mà sự kiện sau có mầm mấng và được nuôi dưỡng ngay từ những sự kiện trước đổ. Trong hạnh phúc đã có mầm bất hạnh. Bởi vậy, đặt nhân vật trong sự vội vã âu cũng thật hợp lý.  Tuy có những dấu hiệu bất thường ấy, nhưng thề nguyền vẫn là đoạn trích thể hiện rõ nhất niềm hạnh phúc của Kim Trọng và Thuý Kiều trong tình yêu. Thề nguyền là minh chứng cho mối tình trong sáng, mãnh liệt và đẹp đẽ của những con người trẻ tuổi, khao khát yêu và được yêu.

Đại thi hào Đức G.Gốt từng nhận định: Tình yêu ban đầu của tuổi thanh xuân trong sáng bao giờ củng hướng đến sự cao thượng, có lẽ lời thề nguyền của Thuý Kiều và Kim Trọng cũng là biểu hiện của tình yêu đang hướng đến sự cao thượng ấy?!

Bài văn phân tích đoạn trích

Bài văn phân tích đoạn trích "Thề nguyền" số 3

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển của nền văn học dân tộc, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống của nhân dân Việt Nam suốt mấy trăm năm nay. Giá trị của truyện Kiều đến từ các giá trị nhân văn, tính nhân bản như lòng thương cảm và xót xa cho số phận con người dưới chế độ phong kiến, ca ngợi vẻ đẹp tài hoa và tâm hồn của người phụ nữ, bên cạnh đó nó còn mang giá trị hiện thực khi phản ánh, tố cáo chế độ phong kiến tàn ác, chèn ép đày đọa con người đến bước đường cùng. Nhân vật chính của tác phẩm là Thúy Kiều một cô gái trẻ tuổi, tài sắc vẹn toàn, thế nhưng lại phải chịu bất hạnh với kiếp hồng nhan bạc mệnh.

Trong phần thứ nhất - Gặp gỡ của tác phẩm, thì trích đoạn Thề nguyền là một trong những trích đoạn hay nhất kể về mối tình đẹp của Thúy Kiều với Kim Trọng. Thề nguyền bắt đầu từ câu 431 đến câu 452 của tác phẩm, sau khi gặp gỡ tại tiết Thanh minh, Kim Trọng và Thúy Kiều đã có thêm vài lần gặp gỡ, cặp trai tài gái sắc, đang tuổi thanh xuân phơi phới đã nhanh chóng phải lòng nhau và tình yêu ngày càng trở nên sâu đậm. Chính vì lẽ đó nên Thúy Kiều nhân lúc cả nhà sang ngoại, đã lén đi tìm gặp Kim Trọng, rồi sau khi đã trở về nhà lúc chiều tà mà chưa thấy người nhà quay trở về nàng lại tiếp tục quay lại lần nữa, rồi tự định ước chung thân với Kim Trọng, để bày tỏ tình yêu sâu sắc chân thành của cả hai. Trích đoạn Thề nguyền đã kể lại tất thảy việc đính ước của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc.

Ở trích đoạn Thề nguyền ta dễ dàng nhận thấy quan điểm tiến bộ trước thời đại cả của Nguyễn Du trong tình yêu đôi lứa, bộc lộ sự ủng hộ của tác giả trong việc nam nữ theo đuổi tình yêu một cách tự do mãnh liệt, thoát khỏi cái e lệ, ngại ngần không dám tỏ bày mà ông cha ta thuở xưa vẫn thường cho là phép tắc, lễ nghĩa. Điều này thể hiện rất rõ trong đoạn Thúy Kiều vượt tường băng qua nhà Kim Trọng ngay trong đêm tối. Bởi trong nền giáo dục truyền thống, phận nữ nhi buộc phải an phận thủ thường, chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy", cũng không có chuyện trai gái lén lút, gặp gỡ riêng nhau để tỏ bày tình yêu, nếu có thì người trai bị cho là vô phép, thiếu lễ nghĩa, còn người con gái phải chịu điều tiếng nặng nề hơn là lăng loàn, thất tiết,... 

Thế nhưng với hai nhân vật Kiều và Kim Trọng, Nguyễn Du lại hoàn toàn tạo cho họ một không gian gặp mặt riêng, để họ được thoải mái bộc lộ tình yêu sâu sắc dành cho nhau. Đặc biệt với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vẽ ra cảnh nàng đêm hôm chạy theo tiếng gọi của tình yêu, rồi tự tay quyết định chung thân đại sự của mình. Điều đó đã từng một thời dấy lên làn sóng tranh cãi về việc rốt cuộc Kiều có phải là người phụ nữ lễ tiết thấu đáo hay cũng chỉ là loại phụ nữ trắc nết. Tuy nhiên đến nay, thì người ta lại có cái nhìn thông cảm và trân trọng hơn với nàng, cũng như cái tính táo bạo, mạnh mẽ trong tình yêu của Thúy Kiều. 

"Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình

Nhặt thưa gương dọi đầu cành,

Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.

Sinh vừa tựa án thiu thiu,

Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.

Tiếng sen sẽ động giấc hòe,

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng

Nàng rằng: "Khoảng vắng đêm trường,

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.

Bây giờ rõ mặt đôi ta,

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?"

Trong 14 câu thơ đầu, ta thấy hiện lên hình ảnh người con gái vội vã đi tìm tình lang, khi vừa trở về nhà thì hay tin cả nhà vẫn chưa về, ngay lập tức trong lòng Kiều đã nảy ra ý định sang tìm Kim Trọng lần nữa. Chứng tỏ rằng tình yêu của nàng đang ở độ mặn nồng và sâu sắc nhất, nỗi nhớ đã bộc lộ ra bằng hành động để chứng minh. Những từ "vội", "xăm xăm", "băng lối", "một mình" đã thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của Kiều trong tình yêu, không màng lễ tiết hay những quan niệm phong kiến ngăn cản tình yêu, vứt bỏ tất cả sau lưng để tìm đến với chân ái của cuộc đời. Bên cạnh đó tình yêu của Kiều còn được vẽ nên dưới một khung cảnh thiên nhiên rất thơ mộng và trữ tình, gợi ra sự lãng mạn, tươi trẻ của thứ tình yêu đầu đời tuyệt đẹp. 

Đó là cảnh "Nhặt thưa gương dọi đầu cành", khi ánh trăng trên cao tỏa xuống những thứ ánh sáng dịu dàng, rồi xuyên qua từng tầng lá để lọt xuống những tia sáng lưa thưa chiếu lên người giai nhân đang rảo bước trong vườn. Cảnh ánh đèn mờ mờ của Kim Trọng xuyên qua cửa hắt ra ngoài vườn, không chỉ thể hiện ánh nhìn trông mong, thương nhớ luôn hướng về nơi tình lang ở của nàng Kiều, mà nó còn thể hiện tinh thần hiếu học, sự miệt mài chăm chỉ của Kim Trọng trong việc đèn sách, càng chứng minh tình yêu của Kiều đã đặt đúng người. Thúy Kiều nhanh chóng băng vườn tìm đến nhà Kim Trọng, ở đây thấy chàng đã hiu hiu giấc ngủ bên đèn sách, chập chờn trong giấc mộng. 

Nguyễn Du dùng hình ảnh có tính ước lệ như "Tiếng sen đã động giấc hòe", để thể hiện phong thái dù vội vã nhưng vẫn uyển chuyển, thanh khiết nhẹ nhàng của Thúy Kiều thông qua "tiếng sen". Lại diễn tả cảnh say giấc của Kim Trọng bằng "giấc hòe" trích từ điển cố Thuần Vu Phần ngủ dưới gốc hòe mơ thấy vinh hoa phú quý. Điều đó thể hiện lý tưởng và khát vọng của Kim Trọng vào việc tạo lập công danh, sự nghiệp, thế nhưng trước giấc mộng không có thật và thân ảnh Thúy Kiều đã đến bên thì Kim đã nhanh chóng thức dậy. Hình ảnh "Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần" càng làm tăng thêm sự thi vị và lãng mạn cho công cuộc gặp gỡ của Kiều và Kim Trọng. 

Khung cảnh đôi kim đồng ngọc nữ, dưới ánh trăng sáng tỏ, với nội tâm là tình yêu mãnh liệt dành cho nhau trở nên thật tuyệt diệu. Chính vì thế khi Kim Trọng tỉnh giấc, nhìn thấy Kiều dưới ánh trăng thanh lại cứ ngỡ bản thân mình đang mơ, thực tế là vì quá đỗi bất ngờ, cùng với việc nhớ mong người yêu mà tưởng mình mộng phải đâu ngờ người đã tới tận bên án thư. Tại đây Kiều đã mạnh mẽ tỏ bày nỗi lòng mình, việc mà xưa nay chắc chẳng mấy nữ nhi thường tình dám chủ động, Kiều đối diện với Kim Trọng bộc lộ sự nhớ mong, trống vắng khi xa nhau, lại sợ "đêm trường" khó tránh khỏi nhớ thương, thế nên ví "hoa" chính là tình yêu, nàng đã "vì hoa nên  phải trổ đường tìm hoa". 

Thế nhưng bên cạnh nỗi nhớ mong tình quân, thì hành động bộc phát của Kiều có lẽ còn xuất phát từ giấc mộng về Đạm Tiên, phải chăng Thúy Kiều đang lo lắng rằng tình yêu của mình sẽ giống như đóa hoa kia, đẹp nhưng sớm nở tối tàn đầy xót xa. Hoặc là lại giống như một giấc "chiêm bao" cuối cùng chẳng còn lại gì, điều đó khiến lòng Kiều bất an vô cùng. Chính vì thế nên mới có cảnh tìm gặp rồi thề nguyền kết tóc, để nàng cảm thấy an tâm hơn về tình yêu đầu đời đẹp như mộng của mình. 

"Vội mừng làm lễ rước vào,

Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương

Tiên thề cùng thảo một chương

Tóc mây một món dao vàng chia đôi

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương"

Không gian thề nguyền của đôi trẻ ấy là trong nhà Kim Trọng, cũng là nơi hai người thường gặp mặt tâm sự, bối cảnh thời gian là một đêm trăng sáng tạo nên không gian thơ mộng trữ tình. Không chỉ vậy ánh trăng xưa nay luôn là biểu trưng cho sự sum vầy, đoàn viên, sự hạnh phúc mỹ mãn, bên cạnh đó còn là biểu thị cho tình yêu trong sáng, thuần khiết và chân thành của Thúy Kiều và Kim Trọng. Vầng trăng ở đây đã trở thành minh chứng thiêng liêng cho tình yêu tuyệt đẹp của đôi trai tài gái sắc. Trong việc thề nguyền, đính ước, cả Thúy Kiều và Kim Trọng đều vô cùng thành tâm và cẩn thận, tỉ mỉ, nào là  nến đỏ thắp trên "đài sen", rồi có cả hương khói tản mát trong "lò đào" làm cho không khí trở nên thập phần lãng mạn, tinh tế và thiêng liêng vô cùng. 

Cả hai đã cùng nhau viết "tiên thề", cùng nhau cắt tóc mây bằng "dao vàng", thể hiện thái độ trân trọng và nâng niu vô cùng ước nguyện cùng nhau kết tóc, bạc đầu trăm năm, quyết tâm không đổi dời. "Đinh ninh hai miệng một lời song song" là thể hiện sự đồng lòng sắt son, là tình yêu chân thành sâu sắc đến từ cả hai phía, từ hai trái tim nay đã hòa chung một nhịp đập, chất chứa đầy ắp thư tình yêu đời đời thuần khiết, sâu nặng. Lời ước hẹn "Trăm năm tạc một chữ đồng đến tâm" chính là lời thề nguyền, hẹn ước suốt kiếp chỉ chung tình với đối phương, mà chữ "đồng" trong đồng tâm, đồng lòng đã ghi tạc vào sâu trong trái tim mãi mãi không bao giờ phai mờ. Tỏ rõ tình cảm và sự thủy chung son sắt của hai con người yêu nhau, vượt qua mọi sự ngăn cản của lễ giáo phong kiến, một lòng theo đuổi thứ tình yêu đích thực, tươi đẹp nhất cuộc đời.

Qua đoạn trích Thề nguyền, ta đã thấy được quan điểm tiến bộ của Nguyễn Du về sự tự do theo đuôi tình yêu của trai gái, thấy được cá tính mạnh mẽ của nàng Kiều, bộc lộ thông qua việc lén tìm Kim Trọng rồi tự định chung thân. Cuối cùng đoạn trích cũng bộc lộ cả vẻ đẹp thuần khiết, thiêng liêng và sâu nặng giữa hai trái tim son trẻ, và ước mơ muôn đời của con người được tự do chạy theo tình yêu, khao khát được hạnh phúc con người.

Bài văn phân tích đoạn trích

Bài văn phân tích đoạn trích "Thề nguyền" số 8

Thề nguyền là một trong những đoạn trích tiêu biểu chtình yêu trong sách, thủy chung mà không kém phần bạo dạn của Thúy Kiều- một cô gái trong xã hội phong kiến, sẵn sàng vượt những hủ tục để có được tình yêu với Kim TrọngMở đầu đoạn trích với cảnh Thúy Kiều lén sang gặp Kim Trọng lần hai khi thấy cha mẹ chưa về:

Sông Tương một dải nông sờ

Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia

Một tường tuyết trở sương che

Tin xuân đâu dễ đi về cho năng

Cửa ngoài vội rủ rèm the,

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

Kiều đi tìm gặp Kim Trọng, Nàng với những bước chân nhanh nhẹn "xăm xăm", can đảm đến bên nhân tình cùng nhau xướng họa văn thơ, tâm sự bầu bạn. Quả thật trong xã hội phong kiến xưa, nhưng hủ tục trói buộc con người, tạo ra một bức tường ngắn cách tình yêu đôi lứa, nhưng Kiều một cô gái có trái tim bồng bột ngây thơ, với sự táo bạo, chủ động trong tình yêu, thê nguyền với người mình yêu khi không có sự cho phép của cha mẹ mình cho thấy trong nàng có khao khát một tình yêu tự do, chính đáng, một tình cảm mãnh liệt với Kim Trọng đồng thời, nàng đang vì chính mình tranh đua với thời gian, định mệnh để tìm kiếm hạnh phúc. Theo từng bước đi đó của Thúy Kiều là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du, mở rộng danh giới tình cảm cho nhân vật. Nàng cứ thế bước đi trong vườn khuya, dần lạc vào ảo mộng:

Nhặt thưa sương giọi đầu cành

Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu!

Sinh vừa tựa án thiu thiu

Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê

Từ thực tại bước vào ảo mộng, từ nơi cỏ cây vườn tược, nàng bước đi để lại sau lưng vườn khuya để đến với tình nhân cũng là lúc bước vào cõi mộng. Chỉ có nàng mới hiểu thấu được rằng trái tim nàng đang nằm ở đó, bên cạnh Kim Trọng- người nàng yêu. Cả hai tầng ánh sáng cũng soi rọi bước chân nàng, ánh đèn hòa cùng ánh trăng, dường như ánh trăng tạo nên chất thơ dẫn dắt tình cảm của Kiều đến đúng nơi cần đến. Còn đối với Kim Trọng sự xuất hiện của Kiều như một giấc mộng, với trạng thái chập chờn giấc ngủ, đường ranh giới mơ thực mỏng manh, không còn được phân định rõ ràng. Nhưng khi nhận ra , chàng lại thấy hạnh phúc, bâng khuâng trước sự xuất hiện đột ngột của tình nhân, xáo trộn không gian nơi căn nhà. Nhìn Thúy Kiều đẹp mờ ảo:

Tiếng sen sẽ động giấc hòe

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

Bóng Kiều hiện ra thật đẹp, vẫn trạng thái mộng thực đan xen lẫn lộn, Bóng người và bóng trăng như hòa làm một. Vừa gần mà lại xa, tưởng chừng trong tầm tay mà lại khó nắm băt. Cả hình ảnh và âm thanh đều rất mơ hồ bởi những bước chân của nàng Kiều quá đỗi khẽ khàng, chỉ như một cơn gió thoảng qua. "giấc hòe" trong câu thơ thực chất là giấc mơ của Kim Trọng, Sự xuất hiện của Thúy Kiều "sẽ động" giấc mơ kia. Khi chàng đã nhận ra Kiều nhưng vẫn không khỏi những ngỡ ngàng, phân vân:

Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần,

Còn nhờ giấc mộng đêm xuân mơ

Giấc mộng đêm xuân hay còn là giấc mơ của tình yêu có thật. Nguyễn Du không tự nhiên đưa ra hai giấc mơ, cũng là sự vận dụng điển tích quen thuộc trong văn học trung đại.Trước những ngỡ ngàng, hanh phúc của Kim Trọng, Kiều giãi bày lí do nàng chủ động sang nhà Kim Trọng:

Nàng rằng: khoảng vắng đêm trường

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Biết đây rồi nữa chẳng là chiêm bao

"Khoảng vắng đêm trường" là không gian thời gian tâm lí bởi vì Kim Trọng trọ học ở ngay gần nhà Kiều mà Kiều sang gặp Kim Trọng đúng sau ngàu thanh minh vậy mà cảm giác như đã xa nhau một khoảng thời gian lâu lắm rồi. Kiều thể hiện nỗi nhớ niềm thương qua chứ "hoa", tình yêu sâu sắc của nàng dành cho Kim Trọng. Nhưng Kiều luôn chiu sự ảm ảnh về tình yêu và số phận sau cuộc gặp gỡ hữu duyên ở mộ Đạm Tiên, nàng có dự cảm về một tương lai bất hạnh chia lìa. Nàng Kiều là một người con gái nhạy cảm lại đang ở mối tình trong sáng, quấn quýt thì nỗi lo lắng về sự xa cách luôn luôn thường trực.

Qua đó thể hiện quan niệm của nàng, phá vỡ những hủ tục lạc hậu trong xã hội phong kiến, tim sự chủ động trong tình yêu và trân trọng nó.Sau những lời rãi bầy của Kiều, Kim Trọng cùng nàng vào trong phòng, nhanh chóng đốt trầm hương thơm thoảng, thắp thêm đèn tỏa ánh sáng ấm áp, chàng lấy tờ giấy hoa ra viết lời thề, cắt tóc chia thành hai phần đặt lên án thư, trao đổi vật tin. Dưới sự chứng dám của vầng trăng:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song

Tóc tơ căn vặn tấc lòng

Trăm năm rác một chữ đồng đến xương.

Đây là một cuộc thề nguyền vụng trộm nhưng lại được Nguyễn Du miêu tả một cách trang trọng, thiêng liêng trong không gian ấm cúng. Trong hoàn cảnh ấy, lời thề trở thành một sợi dây vô hình gắn kết hai trái tim, hai tâm hồn "tạc một chữ đồng đến xương"Qua đoạn trích Thề nguyền, Nguyễn Du đã xây dựng một khung cảnh tuyệt đẹp đó là đêm trăng lãng mạn soi chiếu đôi nhân tình, đề cao tình yêu thủy chung của Kiều và gợi những ám ảnh định mệnh cứ mãi trong tâm trí nàng, khiến nàng mãi lo sợ vụt mất tình yêu của mình, một tình yêu trong sáng mà không kém phần sâu sắc.

Bài văn phân tích đoạn trích

Nguồn: https://topchuan.com/top-7-bai-van-phan-tich-doan-trich-the-nguyen-trong-truyen-kieu-cua-nguyen-du/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét