Được tạo bởi Blogger.

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2020

Top 6 Bài văn phân tích tác phẩm ᡌCảnh ngày hèᡍ của Nguyễn Trãi hay nhất

0 comments
Nguyễn Trãi sinh (1380 - 1442) là một bậc anh hùng, một nhà văn hóa lớn, ông đã để lại cho lớp lớp thế hệ sau một sự nghiệp văn học vĩ đại. Bài thơ "Cảnh ngày hè" là bài số 43 trong số 61 bài thơ của mục Bảo kính cảnh giới (thuộc phần Vô đề của tập thơ Quốc âm thi tập). Bài thơ miêu tả vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên ngày hè đồng thời cho ta thấy tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước tha thiết của tác giả. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm đã được TopChuan.com tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài văn phân tích tác phẩm "Cảnh ngày hè" số 10

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), người anh hùng dân tộc, "tấm lòng sáng tựa sao Khuê" (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về nhân dân về đất nước. Ngay cả khi bị nghi kị, Nguyễn Trãi phải lánh về quê ngoại Côn Sơn, ông vẫn bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng của ông bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài "Bảo kính cảnh giới". Đặc biệt, bài số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân.

"Bảo kính cảnh giới" (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ cảm nhận tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự của người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm "ưu quốc ái dân". Suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn.

Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường" Nhịp thơ hơi lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày "ăn không ngồi rồi": tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối thành một hơi thở như tiếng thở dài. Rõ ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự.

Hai chữ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sẽ là khởi nguồn cho bao nỗi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đã dồn nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mãnh liệt đầy sức sống:

"Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"

Chỉ ba câu thơ nhưng mang lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hòe buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trãi luôn có sức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ đùn đùn, vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ rợp. 

Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào. 

Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống. Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muôn vẻ của thiên nhiên:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ lao xao đến dắng dỏi. Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. Lao xao là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà không quá ồn ào để khuấy động không gian hưởng nhàn của nhà thơ. 

Dường như Nguyễn Trãi dã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phủ để thấy bản thân không xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành mối dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dễ tạo cho nhà thơ nỗi buồn, cấu trúc đăng đối đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ – bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. 

Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. 

Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mĩ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã chung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? 

Cuộc sống của ông không phải của ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vẫn đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn. Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muôn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đã thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vẫn vẹn tấm lòng son:

"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương"

Còn gì thanh cao, giản dị, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng minh theo triết lí nhà Nho "độc thiện kì thân", ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nỗi niềm "ưu quốc ái dân", là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân.

Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm hoài bão cống hiến cho đất nước thái bình thịnh trị như thời Đường Ngu – xã hội thịnh trị lí tưởng theo quan niệm nho gia. Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về nhân dân. Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn "trong sáng và đầy sức sống" (lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng).

Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ. Niềm mong mỏi nhân dân "khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu" chính là minh chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi.

"Bảo kính cảnh giới" – bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ – chiến sĩ của ức Trai tiên sinh. Tấm lòng "sáng tựa sao khuê" ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay!

Bài văn phân tích tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm "Cảnh ngày hè" số 7

Vào thế kỷ XV tức là thời kỳ Phục Hưng của Châu Âu, thời điểm xuất hiện những con người khổng lồ có trí tuệ và tri thức trên rất nhiều lĩnh vực ví như Leonardo da Vinci - một nhà họa sĩ, nhà điêu khắc và triết học tự nhiên. Thì cũng thế kỷ XV ấy, ở Việt Nam cũng đã xuất hiện thiên tài Nguyễn Trãi - một nhà ngoại giao, một nhà quân sự tài ba, công thần đời đầu của nhà Hậu Lê, mà ông còn là một nhà văn hóa xuất sắc trên nhiều lĩnh vực bao gồm địa lý, lịch sử, văn học,... 

Ở lĩnh vực văn, thơ Nguyễn Trãi đã để lại nhiều tác phẩm có tên tuổi và được người đời ca tụng tán thưởng, tiêu biểu nhất là Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập,... Ông là người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Nho giáo với các tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng phụng mệnh trời, bên cạnh đó ông còn nổi bật với tư tưởng nhân dân mới mẻ. 

"Cảnh ngày hè" là bài thơ trích từ tập thơ Nôm Quốc âm thi tập, thuộc Mục bảo kính cảnh giới bài số 43, mà tác giả thông qua cảnh ngày hè trong lúc nhàn hạ, Nguyễn Trãi vẫn một lòng hướng về nhân dân, mang đậm tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân, dù bản thân bị thất sủng, không còn được vua tin dùng.

Cảnh ngày hè được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, tuy nhiên khi Nguyễn Trãi viết tác phẩm này thì thể thơ đã được thay đổi ít nhiều để phù hợp và uyển chuyển hơn. Chính vì vậy bố cục của bài thơ cũng không cứng ngắc với 4 phần đề thực luận kết, mà ở đây có sự tách biệt khá rõ ràng, trong đó 6 câu thơ đầu tiên là bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè dưới tầm mắt một của một trí thức đã lui về ở ẩn, rời ra thế sự.

"Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng Ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

Bên cạnh mốc thời gian rộng là một ngày hè thì, dấu hiệu thời gian để tác giả dựng lên bức tranh thiên nhiên cuộc sống còn được thể hiện qua ba chữ "lầu tịch dương", ý chỉ thời điểm cuối ngày, khi mà mặt trời đã dần tắt, vạn vật đang thu mình lại để chờ đón đêm tối, chuyển từ trạng thái vận động sang trạng thái nghỉ ngơi. 

Thế nhưng trái lại, trong thơ của Nguyễn Trãi cái cảnh cuối ngày ấy lại khác, vạn vật không hề trở nên mỏi mệt, tĩnh lặng, héo úa, buồn bã giống như các vần thơ của các tác giả trung đại ví như Bà Huyện Thanh Quan với "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi/Dặm liễu sương sa khách bước dồn" hoặc như Nguyễn Du với "Chim hôm thoi thót về rừng /Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành". 

Mà ở thơ của Nguyễn Trãi vạn vật vẫn căng tràn sức sống, trào dâng thành hương sắc âm thanh, náo nhiệt rộn rã tươi thắm trong buổi chiều tàn. Thể hiện qua một loạt các hệ thống động từ như "đùn đùn" trong "Hòe lục đùn đùn tán rợp giương", thể hiện sức sinh sôi mạnh mẽ đang căng tràn trong từng thớ vỏ của cây, cứ phun trào hết lớp này đến lớp khác. Không chỉ vậy "tán rợp giương" còn gợi ra hình ảnh xum xuê, xanh tốt của tán cây hòe, chúng mạnh mẽ vươn ra phủ kín cả một khoảng không rộng lớn.

Rồi động từ "phun" trong câu "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" cũng mang lại cảm giác tràn trề nhựa sống, chực chờ nảy nở, sinh sôi để tạo ra một màu đỏ rực rỡ của những hoa thạch lựu. Điều ấy càng làm cho bức tranh ngày hè thêm phần sôi động, chứng minh sự vận động không ngừng nghỉ của thiên nhiên cuộc sống. Bức tranh thiên nhiên tiếp tục được thể hiện bằng câu "Hồng liên trì đã tiễn mùi hương", "tiễn" ở đây là một từ Hán Việt có nghĩa là dư ra, như vậy có thể hiểu đầy đủ câu thơ là ao sen đã nồng nàn mùi hương, hay hoa sen trong ao đã bung nở rực rỡ, hương thơm ngát trời. 

Bên cạnh các động từ thể hiện sức sống tràn trề căng tràn của từng cảnh vật thì các từ láy thể hiện âm thanh trong hai câu thơ "Lao xao chợ cá làng ngư phủ/Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương" cũng lại tiếp tục bổ sung cho bức tranh cảnh ngày hè sự sôi động náo nhiệt của cuộc sống trước buổi chiều tà. "Lao xao" ở đây chính là âm thanh ngã giá, trao đổi của người mua kẻ bán, tái hiện lại một cách sinh động cuộc sống của con người thông qua hình ảnh "chợ cá làng Ngư phủ", gợi ra sự nhộn nhịp, cuộc sống sung túc ấm no của con người, thế nên cảnh chợ phiên cuối ngày mới có cảnh lao xao tấp nập.

Hòa chung với những tiếng trao đổi rộn rã phía xa của con người ấy là sự góp vui của dàn hợp xướng ve sầu cho ra những âm thanh "dắng dỏi" giòn tan, rộn rã, khuấy động cả không gian buổi chiều tà, làm cho khung cảnh thêm phần náo nhiệt, đượm sức sống, gạt đi cái u buồn, tẻ nhạt của hoàng hôn.

Một điều đặc sắc nữa của bài thơ là tác giả đã căng mở tất cả các giác quan để cảm nhận một cách tinh tế và tái hiện một cách xuất thần vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên cuộc sống. Với xúc giác Nguyễn Trãi đã mang đến cho người đọc ấn tượng đầu tiên về bức tranh thiên nhiên ấy là sự mát mẻ, dễ chịu, tạo cho người đọc ấn tượng về phong thái nhàn hạ, thoải mái của thi nhân khi tận hưởng từng cơn gió thuở ngày hè. 

Bên cạnh đó thị giác lại mang đến những ấn tượng sâu sắc về dáng hình của thiên nhiên với những màu sắc rực rỡ, đó là màu xanh lục của cây hòe rợp bóng, rồi nổi bật trên cái nền xanh thẫm ấy là màu đỏ rực rỡ của những đóa thạch lựu, và màu hồng dịu dàng của loài sen đã nở rộ trong đầm. Và cuối cùng cả ba gam màu ấy lại được tắm mình trong cái màu vàng nhàn nhạt của ánh hoàng hôn sắp tắt để đem đến một bức tranh mùa hè tươi tắn, sức sống căng đầy mạnh mẽ, thể hiện sự yêu đời, yêu sống, nhìn cảnh vật bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả Nguyễn Trãi. 

Thêm vào đó, sự cảm nhận tinh tế của khứu giác về mùi của loài hoa sen, một loài hoa vốn nhàn nhạt hương sắc, mà chỉ những con người thực sự có tấm lòng tha thiết với sen mới có thể cảm nhận được cái mùi hương thanh mát, đang lan tỏa một cách nồng nàn, trong không gian khoáng đạt. Mùi hương ấy cũng gián tiếp thể hiện cái vẻ đẹp của hoa sen vào mùa nở rộ, khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến hình ảnh một đầm sen hồng, không quá rực rỡ, nhưng cũng đủ khiến bức tranh thiên nhiên bừng lên những vẻ đẹp rộn rã, yêu đời từ hương sắc của loài hoa thanh cao này. 

Và cuối cùng bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè càng trở nên sôi động, náo nhiệt thông qua sự cảm nhận một cách tinh tế của nhà văn về âm thanh của con người của sự vật. Đó là tiếng "lao xao" thể hiện sự nhộn nhịp trong đời sống sinh hoạt của con ngày và buổi chợ chiều, là tiếng ve "dắng dỏi" vang vọng khắp không gian, như nhắc nhở người ta về một ngày hè rạo rực.

Việc sử dụng biện pháp đảo cấu trúc đưa các từ láy mô tả âm thanh lên vị trí đầu câu lại càng nhấn mạnh sự náo nhiệt của cuộc sống rộn ràng trong buổi chiều tà, gợi cảm giác vui tươi, hứng khởi của cuộc sống, làm lu mờ cái cảm giác vắng vẻ, hiu quạnh mà những buổi chiều trong thi ca thường mang lại. 

Như vậy việc huy động tất cả những giác quan của tác giả đã tái hiện một cách xuất sắc bức tranh thiên nhiên cuộc sống, cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi không chỉ đẹp mà còn có chiều sâu, thể hiện được tam quan của tác giả về cuộc đời, luôn nhìn sự sống bằng đôi mắt hứng khởi, tha thiết, thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên, cuộc đời tha thiết của tác giả. Từ những cảm nhận tinh tế về bức tranh thiên nhiên cuộc sống, Nguyễn Trãi đã bộc lộ tấm lòng yêu dân ái quốc của mình qua hai câu thơ kết bài.

"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương"

Từ những quan sát về cuộc sống náo nhiệt của nhân dân nơi chợ cá làng Ngư phủ, tác giả đã mường tượng ra hình ảnh cuộc sống vô cùng tươi đẹp, sung túc đầy đủ của nhân dân. Điều đó gợi ra trong tâm hồn của tác giả những niềm vui, niềm hạnh phúc khi chứng kiến cảnh quốc thái dân an, thế nên muốn có Ngu cầm của vua Nghiêu vua Thuấn để đàn ra khúc Nam Phong, ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị của đất nước. Thể hiện niềm mong ước của Nguyễn Trãi về sự giàu có, phồn vinh của nhân dân giống như hai triều đại trong lịch sử. 

Đồng thời hai câu thơ còn thể hiện sự mãn nguyện, hài lòng của tác giả khi mong ước cả cuộc đời, với tư tưởng nhân nghĩa, hướng về về nhân dân nay đã trở thành hiện thực. Tất cả đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn cao quý của Nguyễn Trãi, dù là khi còn làm quan, còn được trọng dụng hay khi đã thất thế sa cơ thì tấm lòng của ông vẫn không một lần thay đổi. 

Tác giả luôn hướng trái tim mình về với nhân dân, với cuộc sống lao động bình thường dân dã, thể hiện niềm yêu tha thiết với vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc đời. Nguyễn Trãi ấy, đã dành cả kiếp nhân sinh để lo nghĩ cho nhân dân, cho đất nước bằng những tư tưởng cao đẹp, bằng tấm lòng nhân hậu, nhân nghĩa, một lòng phụng sự cho Tổ quốc, cho dân tộc, thật đáng quý vô cùng.

Cảnh ngày hè là một bài thơ hay, thể hiện rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của tác giả Nguyễn Trãi, ở đó người ta không chỉ thấy hiện lên vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên rực rỡ, náo nhiệt căng tràn sức sống. Mà còn nhìn nhận được tấm lòng thiết tha của tác giả dành cho vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc, cả một đời người chỉ mong ước sự phồn hoa, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, thể hiện nổi bật tư tưởng chính nghĩa và tư tưởng vì nhân dân mà tác giả vẫn luôn hằng tâm niệm.

Bài văn phân tích tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm "Cảnh ngày hè" số 1

Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới. Bài thơ là bức tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.  Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm, thanh thoát đến thế. "Rồi hóng mát thuở ngày trường".

Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là "Rỗi hóng mát thuở ngày trường". Nhưng "rỗi" hay "rồi" cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. 

Rảnh rỗi, sự việc còn đều xong xuôi, đã qua rồi "Ngày trường" lại làm tăng sự chú ý. Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả: "Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài". Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải dành "hóng mát" cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình.

Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa. Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

"Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương".

Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cánh hoa điểm tô sắc thắm. 

Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời...  Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương".

"Chợ" là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh... lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi.

"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương".

"Dân giàu đủ", cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn "Nam Phong" khảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. 

Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc. Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.

Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói, dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no. Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm "cuồn cuộn nước triều Đông". Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm.

Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng Ức Trai vẫn canh cánh "một tấc lòng ưu ái cũ". Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.

Bài văn phân tích tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm "Cảnh ngày hè" số 3

Nguyễn Trãi là vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tài năng kiệt xuất của ông không chỉ được khẳng định trong lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn được khẳng định qua sự nghiệp văn chương đồ sộ với những đóng góp lớn lao cho nền văn học nước nhà.

Lí tưởng mà Nguyễn Trãi ôm ấp lá giúp vua làm cho đất nước thái bình, nhân dân thịnh vượng. Lí tưởng cao đẹp ấy là nguồn động viên mạnh mẽ khiến ông vượt qua mọi thử thách, gian nan trên đường đời. Lúc được nhà vua tin dùng cũng như khi thất sủng, nỗi niềm lo nước, thương dân luôn canh cánh bên lòng ông. Giông bão cuộc đời không thể dập tắt nổi ngọn lửa nhiệt tình trong tâm hồn người chí sĩ tài đức vẹn toàn ấy.

Bài thơ Cảnh ngày hè được sáng tác vào thời gian Nguyễn Trãi về nghỉ ở Côn Sơn. Ông tạm thời xa lánh chốn kinh đô tấp nập ngựa xe và chốn cửa quyền hiểm hóc để về với thiên nhiên trong trẻo, an lành nơi thôn dã, bầu bạn cùng dân cày cuốc, cùng mây nước, chim muông, hoa cỏ hữu tình. 

Trong những tháng ngày dài nhàn nhã "bất đắc dĩ ấy, nhà thơ có lúc thấy vui trước cảnh vật mùa hè tưng bừng sức sống và kín đáo gửi vào những vần thơ tả cảnh một thoáng khát vọng mong cho dân giàu, nước mạnh. Bài thơ phản ánh tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước. Bài thơ mở đầu bẵng câu lục ngôn nêu rõ hoàn cảnh của nhà thơ lúc đó: Rỗi / hóng mát / thuở ngày trường.

Lẽ ra câu thơ phải bảy chữ mới đúng là thể thất ngôn bát cú quen thuộc, song Nguyễn Trãi đã lược đi một chữ. Đây cũng là một cách tân táo bạo, mới mẻ trong thơ Nôm nước ta thuở ấy. Nhịp thơ 1/2/3, chậm rãi phản ánh tư thế ung dung, tự tại vốn có của tác giả.

Chữ Rỗi tách riêng thành một nhịp thể hiện cảm nhận của tác giả về tình cảnh của mình. Rỗi là từ cổ, cổ nghĩa là nhàn nhã, không vướng bận điều gì. Cuộc đời Nguyễn Trãi thường không mấy lúc được thảnh thơi. Đây là lúc ông được sống ung dung, được thỏa ước nguyện hòa mình với thiên nhiên mà ông hằng yêu mến.

Không có việc gì quan trọng, cần kíp để làm cả, chỉ có mỗi "việc" là hóng mát. Ngày trường là ngày dài. Đây là cảm giác tâm lí về thời gian của người đang sống trong cảnh nhàn rỗi, thấy ngày dường như dài ra. Với con người ưa suy nghĩ, hành động như Nguyễn Trãi thì cảm giác ấy càng rõ hơn bao giờ hết.

Giữa lúc xây dựng lội non sông sau chiến tranh, việc dân việc nước bời bời mà ông bị bắt buộc phải hóng mát hết ngày này qua ngày khác thì quả là trớ trêu, Bởi vậy, ông rơi vào cảnh thân nhàn mà tâm bất nhàn. Đằng sau câu thơ trên dường như thấp thoáng một nụ cười chua chát của Nguyễn Trãi trước tình cảnh trớ trêu ấy.

Chỉ có vẻ đẹp hồn nhiên, vô tư của cảnh vật mới có thể tạm xua đi những áng mây buồn vướng vít trong tâm hồn ông. Ông mở lòng đón nhận thiên nhiên và thấy vui trước cảnh:

Hòe lục đùn đùn tản rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Chi vài nét bút phác họa mà bức tranh quê đã hiện lên tươi khỏe, hài hoà. Cây trước sân, cây trong ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau vươn lên khoe sắc, tỏa hương. Cây hòe với tán lá xanh um xoè rộng, trong khi cây lựu nở đầy những bông hoa đỏ thắm và sen hồng đã nức mùi hương. Sức sống trong cây đang đùn đùn dâng lên cành, lên lá, lên hoa. Cây tỏa bóng rợp xuống mặt sân, tỏa luôn bóng mát vào hồn thi sĩ.

Ba câu thơ nổi đến ba loại cây: hòe, lựu, sen nhưng chẳng lẽ tác giả chỉ nói đến cây? Dường như có cả con người lồng trong đó, hết sức kín đáo. Các từ đùn đùn, (dồn dập tuôn ra) giương (toả rộng ra), phun, tiễn (ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy chất chứa bên trong sự vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, ấn tượng. Câu thơ thứ hai ngắt nhịp 4/3. Hai câu thơ tiếp theo đổi nhịp thành 3/4, tạo thêm cho cảnh vật vẻ sinh động, rộn ràng.

Giữa cảnh với người có nét tương đồng nào chăng? Đời người anh hùng cũng đã vơi nhưng giống như hàng tùng bách dày dạn tuyết sương nên sức sống vẫn chảy mạnh trong huyết quản. Thức đỏ (màu đỏ) của hoa lựu phải chăng là thức đỏ của tấm lòng sắt son với dân với nước?! Mùi hương thơm ngát của sen có phải là lí tưởng chẳng bao giờ phai nhạt của Nguyễn Trãi suốt đời phấn đấu vì đất nước thanh bình, vì nhân dân hạnh phúc?! 

Rõ ràng ở đây, cảnh và người có những nét tương đồng và đều đẹp đẽ, hài hòa. Ở bốn câu thơ trên, nhà thơ mới nhắc đến màu sắc, hương thơm, cây cỏ; ở hai câu thơ tiếp theo còn có thêm mùi vị, âm thanh, hình ảnh con người và cảnh vật:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng hỏi cầm ve lầu tịch dương.

Từ tượng thanh Lao xao đặt trước hình ảnh chợ cá làm nổi bật không khí nhộn nhịp của làng ngư phủ. Lao xao tiếng trao qua đổi lại, ồn ã tiếng nói tiếng cười. Tất cả đều là hơi hướng của cuộc sống lao động cần cù, chân chất. Những âm thanh lao xao ấy hòa vào tiếng ve kêu dắng đỏi bất thần nổi lên trong chiều tà, báo hiệu chấm dứt một ngày hè nơi thôn dã. Tiếng ve lúc chiều tà thường gợi buồn, nhưng với nhà thợ lúc này, nó trở thành tiếng đàn rộn rã khiến tâm trạng nhà thơ cũng náo nức hẳn lên.

Cỏ cậy, hoa lá, con người đẩy sức sống khơi dậy trong lòng nhà thơ cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng và những suy nghĩ chân thành, tâm huyết nhất. Đó là tình yêu cuộc sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước. Nguyễn Trãi luôn tâm niệm lấy dân làm gốc (dân vi bản, dân vi quý) cho nên trước thiên nhiên tươi xanh, trước những con người cần cù, lam lũ, lòng ông lại dấy lên khát vọng mãnh liệt:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.

Vậy là dẫu hòa hợp đến hết mình với thiên nhiên, Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nỗi niềm dân nước, ông tìm thấy ở thiên nhiên cỏ hoa xinh tươi kia một nguồn thi hứng, nguồn động viên, an ủi và khích lệ đáng quý đối với bản thân. Điều đó góp phần tạo nên cốt cách của Nguyễn Trãi, bậc trượng phu – chính nhân quân tử – hiên ngang như cây tùng, cây bách trước giông bão cuộc đời.

Cảnh ngày hè là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trãi về hình thức thơ. Câu thất ngôn xen lục ngôn, các vế đối rất Chỉnh, cách sử dụng từ láy rất tài tình. Để tăng sức biểu hiện của các tính từ và động từ, tác giả đem chúng đặt ở đầu câu. Đây là bài thơ tả cảnh ngày hè tràn đầy sức sống. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh sắc đặc trưng của mùa hè, mà còn là "tức cảnh sinh tình".

Cảnh ở đây thể hiện niềm vui sống, háo hức, tươi tắn, trẻ trung của tâm hồn nhà thơ Và niềm ao ước của Nguyễn Trãi về hạnh phúc cho dân chúng muôn phương.

Bài văn phân tích tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm "Cảnh ngày hè" số 4

Đặt cho bài Bảo kính cảnh giới số 43, trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, cái tựa Cảnh ngày hè kể cũng phải. Phần lớn thơ thuộc chùm Bảo kính cảnh giới vẫn nghiêng về những gương báu tự răn mình, đúng như chủ đề chung của cả chùm. Trong khi đó, bài 43 này, dù không phải không có cái ý răn mình, nhưng lại nghiêng nhiều về tức cảnh. Toàn thi phẩm là tâm tình nồng hậu của ức Trai trước cảnh tượng hưng thịnh của ngày hè. 

Dù được viết cách nay đã hơn sáu thế kỉ, nhiều ngôn từ đã trở nên xưa xa đối với người hiện đại, thậm chí kèm theo luôn phải có cả một bản chú thích lê thê đến gần 20 mục, nhưng Cảnh ngày hè vẫn dư sức vượt qua khoảng cách thời gian dằng dặc, vượt qua rào cản ngôn ngữ rậm rịt để đến được với người đọc bây giờ. Điều gì đã khiến cho bài thơ có được sức sống này? Sự tài hoa của ngòi bút chăng? vẻ tinh tế của tâm hồn chăng? Tầm vóc lớn lao của một tâm lòng chàng? Có lẽ không riêng một yếu tố nào, mà là sự kết tinh của tất cả thành một chỉnh thể thi ca sống động, một kiến trúc ngôn từ cô đúc dư vang.

Cảnh ngày hè trước hết là một cảnh tượng rực rỡ và rộn rã. Nếu tuân theo nguyên lí "thi trung hữu họa", người đọc hoàn toàn có thể cảm thụ thi phẩm như một bức tranh. Một bức tranh được vẽ bằng ngôn từ. Một bức tranh nghiêng về gam màu nóng, theo lối phân loại của hội họa. Thật là gam màu đặc trưng của ngày hè. Hai câu đề, với những nét bút đầu tiên, đã đưa ngay cái không khí hè đến với người đọc:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương"

Ngày hè hiện ra với một tâm thế, một thời gian, một không gian khá ăn nhập với nhau. Ba chữ Rồi hóng mát đã gợi ra hình ảnh một ức Trai trong dịp nhàn rỗi hiếm hoi nào đó đang hóng mát ngày hè. Nhưng ba chữ thuỷ ngày trường mới giàu sức gợi hơn. Ngày mà dài thì đúng là đã tóm được cai chênh lệch đêm ngắn, ngày dài khá đặc trưng của mùa hè. Nhưng có phải chỉ là chuyện thời lượng đơn thuần không? 

Hình như còn là chuyện tâm lí nữa. Khoảng thời gian nào mà lại có thể khiến một con người vốn ham gánh vác việc xã tắc giang sơn này cảm nhận là "thuở ngày trường?" Thời ông đang làm rường cột bận bịu với chính sự giữa cung đình của một vị quan đầu triều ư? Không thể. Khi ấy, người say sưa hành sự khó mà cảm nhận về "ngày trường". Vì thế, chữ "ngày trường" gợi ra những ngày nhàn cư mà chẳng thật thanh nhàn bên ngoài chính cuộc của ức Trai chăng? Mà đâu chỉ hiện trong nghĩa của chữ, tâm thế ấy như còn ẩn trong âm vang của lời. 

Chẳng phải thế sao? Câu khai mở đã gây một cảm giác lạ đối với người quen đọc thơ thất ngôn bát cú. Có một cái gì đó như là giao thoa của những cảm giác trái chiều: ngắn mà lại dài, mau mà lại khoan. Sao thế nhỉ? Có phải vì đó là một câu phá cách: lời chỉ có sáu tiếng (lục ngôn), tiết tấu chỉ có hai (3/3). Cả chuỗi lời thì ngắn, mỗi tiết tấu lại dài. Số nhịp thì dồn lại, mỗi nhịp lại trải ra. Sự co giãn này có hiệu quả gì đây? Hãy lắng nghe âm vang của nó: "Rồi hóng mát/ thuở ngày trường"

Chẳng phải nó tao ra một ngữ điệu khá khác biệt, chứa đựng những tình điệu dường như cũng trái chiều: vừa hối thúc lại vừa thong dong? Thong dong mà hối thúc, nhàn cư mà bận tâm, chẳng phải là cái tâm thế thường trực ỏ ức Trai hay sao? Có lẽ sẽ không ngoa khi nói rằng chính tâm thê này đã ngầm tìm kiếm cho nó kiểu câu trúc ngôn từ như thế trong câu khai mở! Người nghiên cứu hiện đại có thể gọi đó là sự tham gia sáng tạo của vô thức chăng? Kết hợp câu đề thứ hai với câu thực ta sẽ thấy một thiên nhiên dồi dào sức sống được hiện lên qua sắc độ rực rỡ của thảo mộc hoa lá:

"Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên tri đã tiễn mùi hương"

Trật tự không gian trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng không qua hiên nhà rồi xuống ao sen. Ở tầng nào của thiên nhiên, sức sống bên trong cũng như đang trào ra. Các tạo vật thiên nhiên không chịu tĩnh. Chúng động. Màu xanh lục lá hòe thì "đùn đùn" như cuộn lên từng khôi biếc, tán hòe thì "rợp giương" như cử lọng giương ô. Màu đỏ hoa lựu không lặng lẽ tô son điểm sắc, cũng không lập lòe dậy lên vài đốm lửa, mà nhất loạt phun trào thức đỏ, tựa pháo hoa hừng sáng cả hiên nhà.

Từ dưới ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng chín ửng cùng mùi hương dậy lên bay tỏa không gian. Mật độ dậy của các động thái "đùn đùn", "rợp giương", "phun", "tiễn"... đã tạo nên một sự sôi động đằng sau mỗi loài thảo mộc tưởng chừng tĩnh lại. Như thế, động thái mạnh lại được cộng hưởng bởi độ gắt của gam màu, tất cả làm dậy lên sức sống của thiên nhiên đang kì toàn thịnh.

Chưa hết. Chúng ta còn thấy Nguyễn Trãi tinh tế hơn nhiều. Thi sĩ đã bắt được một nhịp vận hành vô hình hối thúc, xô đẩy tạo vật nữa. Chỉ cần chú ý một chút thôi sẽ thấy điều này: thảo mộc thì tiếp nối liên tục từ cao xuống thấp, động thái thì liên tiếp từ trong ra ngoài, lá - hoa - hương thì tiếp ứng nhau, nhất là cái nhịp độ khẩn trương: Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Loài này đang thì loài kia đã, hô ứng nhau, chen bước nhau gợi ra được không khí các tạo vật đang đua tranh phô sắc, khoe hương.

Có lẽ cần dừng đôi chút về câu chữ ở đây. Trước hết, là chữ. Hiện có hai bản ghi khác nhau về câu thơ Hồng liên trì đã ... mùi hương và do đó có hai cách hiểu khác. Một bản ghép là "tin", nghĩa là hết mùi hương, diễn tả vẻ suy. Một bản chép là "tiễn", nghĩa là đưa tỏa mùi hương, diễn tả vẻ thịnh. Đi liền với chữ, là cú pháp. Cặp quan hệ từ "còn"... "đã" trong cặp câu thực biểu hiện quan hệ cú pháp nào? 

Không ít người chỉ thây chúng biểu đạt quan hệ suy giảm: "đang còn"... "dã hét". Từ đó đã dẫn tới việc hiểu nghĩa của chúng là Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ/ Hồng tiên tri đã tin (hết) mùi hương. Hiểu thế có phù hợp không?. Để làm sáng tỏ, ngoài những căn cứ về văn tự Nôm, có lẽ cần phải có thêm căn cứ về văn bản thơ và các quy luật nghệ thuật nữa. Trong nghệ thuật, có quy luật: tiểu tiết phục tùng tổng thể chi phối tiểu tiết. Cảm hứng chung của thi phẩm là về sự sung mãn toàn thịnh của ngày hè. 

Cho nên các hình ảnh (cả thiên nhiên lẫn đời sông) tạo nên tổng thể ở đây cũng phải nhất quán, mỗi chi tiết đều phải góp mình làm nổi bật cái thịnh. Xem thế, chữ "tin" ít có lí. Nó nói cái suy. Tổng thể nói thịnh, tiểu tiết sao lại nói suy? Rõ ràng, "tin" sẽ lạc điệu, phá vỡ hệ thống. Trái lại, chữ "tiễn" nói cái thịnh, mới cộng hưởng được với vẻ toàn thịnh ấy. về quan hệ cú pháp cũng thế. Cặp phó từ "còn"... "đã"... đâu chỉ nói về loại quan hệ suy giảm: "đang còn"... "đã hết", mà nó còn dùng để chỉ loại quan hệ tăng tiến: "đang còn"... "đã thêm". 

Trong tổng thể này, quan hệ phải là tăng tiến thì mới ăn nhập. Bởi vậy, nghĩa của hai câu thơ chỉ có thể là: Thạch lựu hiện còn phun thức đỏ/Hồng liên trì đã tiễn (đưa/tỏa) mùi hương. Hương sen, sắc lựu tiếp ứng nhau, chen đua nhau cùng hợp nên vẻ toàn thịnh của ngày hè. Ăn nhập với thiên nhiên rực rỡ là một đời sông rộn rã. Theo đó, bức tranh ngày hè toàn thịnh vốn đã đầy màu sắc giờ lại tràn ngập cả âm thanh:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"

Nghĩ cũng thú vị, chợ là một hình ảnh vô cùng điển hình của cuộc sống này. Lúc đương đông buổi chợ là hình ảnh vui của một cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi chợ tan là hình ảnh rã đám của một cuộc sống đương đi xuống. Chỉ cần nhìn vào diện mạo chợ, cũng có thể thấy được âm vang của đời sống. Âm thanh "lao xao" từ chợ cá làng ngư phủ đã nói lên vẻ sầm uất của cuộc đời xung quanh. Cả hình ảnh bóng tịch dương nữa. Nắng tắt, bóng tối dâng lên vây phủ bốn bề, âm thanh sinh hoạt cũng dần dần thưa thớt. Lúc tịch dương thì dù đó là miền sơn cước hay chốn chương đài, cũng đều khó tránh khỏi không khí quạnh hiu cô tịch.

Nhưng không khí ấy ở đây đã bị xua tan bởi nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi như một bản đàn làm cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải là một tâm hồn mở, một điệu hồn náo nức thì mới có thể nghe tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế. Từ làng ngư phủ xa xa của dân nghèo lớp dưới, đến lầu son gác tía của người lớp trên, chỗ nào cũng rộn rã vui tươi. 

Cái nhìn khái quát đã thâu tóm được toàn, cảnh cuộc sống trong đôi nét bút tài hoa.Trước, vẽ thiên nhiên thì từ cao xuống thấp, giờ, vẽ đời sống lại trải từ thấp đến cao, từ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt những âm thanh lao xao và dắng dỏi lên đầu mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta ngỡ như người viết đang muốn phổ vào không gian cả một dàn âm thanh rộn rã. Cảnh hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.

Nếu chỉ dừng lại ở cảnh không thôi, cũng đã phần nào thấy được lòng người vẽ cảnh. Phải, cảnh tượng ấy đâu chỉ nói với ta về sự tinh tế của một tâm hồn, đó còn là sự phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có hồn, đó còn là sự phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có dịp dược hiểu về tấm lòng ấy trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ:

"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương"

Giá chỉ có cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam Phong cầu cho dân giàu đủ khắp muôn phương. Cặp câu kết này hé mở cho chúng ta về chí của Ức Trai. Người dám mang trong mình ước nguyện kia phải là ai vậy? Một thi sĩ đơn thuần thôi sao? Một công thần khanh tướng thôi sao?

Những kẻ ấy dám mơ đến việc cầm trong tay cây đàn của một quân vương sao? Không. Trong đời, về phận vị, Nguyễn Trãi là một công hầu. Nhưng trong thơ, trong cái thế giới của những khát vọng riêng tư nhất, ông đã bộc lộ khát khao lớn ngang tầm với những bậc quân vương vốn là thần tượng của lịch sử. Điều này có gì là không chính đáng đâu. Và, đó là khát khao tầm cỡ Nghiêu Thuấn.

Thêm nữa, Nguyễn Trãi muôn gảy đàn chỉ để ca ngợi cuộc sống phong túc hiện thời thôi sao? Không. Dù cảnh tượng bày ra nhãn tiền kìa quả là hưng thịnh. Nhưng nó vẫn chưa khiến ông thỏa nguyện. Ông muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong để cầu mong cho dân tình phong túc hơn nữa. Ông mong muốn có một cuộc sống thực sự thái bình.

Đó là khát khao sâu kín và cháy bỏng suốt một đời Nguyễn Trãi. Vì nó ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng và tôn tộc của mình. Chẳng thế mà ông cần phải đúc nó vào trong một câu lục ngôn, một câu đột nhiên ngấn lại, như để ghim sâu điều đau đáu của cõi lòng. Thì đó là khát khao Nghiêu Thuấn của một con người suốt đời "âu việc nước" chứ sao!

Và, Cảnh ngày hè như thế, chẳng phải là sự hòa điệu tuyệt vời giữa tâm hồn và nét bút của một đấng tài hoa với tấm lòng của một bậc minh vương lương tướng ư?

Bài văn phân tích tác phẩm

Bài văn phân tích tác phẩm "Cảnh ngày hè" số 6

Nguyễn Trãi – một bậc thi ca của văn học Việt Nam, cuộc đời ông sống giao cảm với thơ với cuộc sống thiên nhiên và con người. Cảnh quan trường làm cho ông nghẹt thở bởi những toan tính chèn ép vậy nên ông đã quyết định tìm về với thiên nhiên để cho tâm hồn mình thanh tịnh. 

Trong thời gian ấy ông làm thơ về thiên nhiên nhưng trong những vần thơ thiên nhiên ấy lại có những tâm sự về sự lo lắng cho nhân dân đất nước. bài thơ Cảnh ngày hè là một bài thơ như thế. Trong thiên nhiên mùa hè và cảnh sống sinh hoạt của nhân dân Nguyễn Trãi vẫn thể hiện tình yêu nhân dân đất nước của mình. Trước hết là câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của nhà thơ trong những ngày hè, nhưng ngày về cáo quan ở ẩn:

"Rồi hóng mát thuở ngày trường" Chúng ta thấy rõ được chữ "rồi" ở đầu câu thể hiện một tâm trạng rảnh rỗi của nhà thơ ở quê. Nó không có sự bon chen đố kị, chèn ép của những ninh thần. Tại sao nhà thơ không nói là rỗi mà lại là "rồi". Có thể nói chữ rỗi và chữ rồi đều nói lên cùng một tâm trạng nhưng nhà thơ sử dụng từ "rồi" nghe có vị xưa cũ hơn. Bởi vì từ rỗi là sau này mới có, nó mang tính chất hiện đại hơn. 

Nhà thơ cáo quan về với thiên nhiên làng cảnh Việt nam và nhà thơ không những được thanh lọc về tâm hồn mà còn rảnh rỗi hóng mát suốt cả ngày. Nói như thế không phải là nhà thơ không phải làm gì để ăn mà là để chỉ cái cuộc sống thanh bình an nhàn không mệt đầu mệt óc ở nơi thôn quê hẻo lánh với những con người nông dân hiền lành chất phác lương thiên này. Những câu thơ tiếp theo nhà thơ vẽ lên một bức tranh cảnh ngày hè vô cùng rực rỡ. 

Bức tranh ấy không chỉ có thiên nhiên mà còn có cả con người nữa. Trước tiên là bức tranh thiên cảnh ngày hè nơi thôn quê. Có thể nói Nguyễn Trãi giống như một nhà họa sĩ dùng ngôn từ để vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ấy:

"Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. "

Cây hoa hòe tán rộng tỏa bóng mát khắp đầu tường. Tiếp đó nhà thơ vẽ thêm những bông hoa thạch lựu trước hiên nhà có màu đỏ rực rỡ như ánh nắng chói chang của mùa hạ kia vậy. Nhắc đến quê hương người ta không thể nào quên được hình ảnh những bông hoa sen hồng với hương sắc tuyệt vời. Nhà thơ không nói hẳn là hoa sen mà nhà thơ dùng hai chứ "Hồng Liên" thể hiện sự trang trọng cổ kính của bông hoa sen ấy. 

Trong bức tranh ấy ta không chỉ thấy màu sắc mùi hương mà ta còn thấy được cả sự sinh trưởng của chúng. Cây hoa hòe "đùn đùn", cây thạch lựu "phun", hoa sen "tiễn" mùi hương. Mùa hạ quả đúng là mùa của sinh trưởng cho những loại cây cối. Sức sống ấy mạnh mẽ như các động từ mạnh kia vậy. Hương thơm của hoa sen cũng như bay xa hơn thoảng vào không gian nhiều hơn qua từ "tiễn" ấy. 

Chữ tiễn ấy không phải là tiễn biệt chia ly mà chứ tiễn như thể hiện cái sự bay xa của hương sen trong cơn gió kia làm cho không gian làng quê ngát hương. Bức tranh ấy còn có cả những cuộc sống sinh hoạt của con người làng quê. Thật vậy tranh thiên nhiên đã đẹp nhưng nó còn đẹp hơn khi xuất hiện hoạt động sự sống của con người:

"Lao xao chợ cá làng ngư phủ,

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương."

Từ láy "lao xao" như thể hiện được hết cái vui tươi của con người lao động trong những buổi chợ. Chợ có đông thì mới có niềm vui như thế, có tiếng động như thế. Cái âm thanh ấy như tác động đến tâm hồn người nghệ sĩ. Chợ cá kia dường như có rất nhiều đồ khiến cho người dân nơi đây náo nức, mua bán Có thê nói rằng đó chỉ là cuộc sống đời thường thôi nhưng tại sao khi cảm nhận ở đây ta lại thấy nó đẹp đến thế.

Có khi nào cái đẹp xuất phát từ những cái quá đỗi bình thường không?. Thế rồi âm thanh của những con ve gọi hè. Tiếng ve như dắng dỏi tạo nên thành một dàn đồng ca mùa hạ ngân nga ngày đêm không biết mệt. Trước những thiên nhiên và con người nhà thơ như thể hiện những ước nguyện của mình. Nhà thơ thật thà thể hiện tấm lòng của mình:

"Rẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ khắp đòi phương"

Câu thơ thể hiện ước nguyện của nhà thơ mong muốn mượn được chiếc đàn của vua Ngu Thuấn đàn một tiếng cho nhân dân giàu khắp bốn phương. Từ truyền thuyết tiếng đàn của vua Ngu thuấn nhà thơ thể hiện ước nguyện sự lo lắng cho nhân dân. Mong có thể giúp đỡ cho nhân dân có một cuộc sống đầy đủ yên ổn thái bình.

Như vậy qua đây ta thấy được một bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp, tất cả nhưng màu sắc đều thể hiện đặc trưng của mùa hè. Có thể nói chắc hẳn nhà thơ phải là một người yêu thiên nhiên nhiều lắm thì mới có thể cảm nhận được cả những bước sinh trưởng của cây côi mùa hè như thế. Đồng thời ta cũng thấy được một tâm hồn trung nghĩa với nhân dân. Mặc dù xa rời quan trường nhưng ông không lúc nao không lo cho nhân dân, mong muốn nhân dân có một cuộc sống an lành bình yên.

Bài văn phân tích tác phẩm

Nguồn: https://topchuan.com/top-8-bai-van-phan-tich-tac-pham-canh-ngay-he-cua-nguyen-trai-hay-nhat/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét